Võ Miếu thờ ai?
Chúng ta đều biết, Văn Miếu là nơi thờ phụng các bậc 'Thánh' trong Nho giáo. Còn Võ Miếu ở Trung Quốc là nơi thờ các nhân vật kiệt xuất về quân sự như Tô Vũ, Điền Nhượng Thư, Quản Trọng, Lý Tĩnh, các đại tướng như Trương Lương, Hàn Tín, Gia Cát Lượng, Quách Tử Nghi, Nhạc Phi, hay nhân vật nổi danh trung nghĩa như Quan Vũ...
Ở Việt Nam, sử sách từng biết đến Võ Miếu ở thành Thăng Long, nơi Hoàng Diệu tuẫn tiết năm 1882 sau khi không chống lại được quân Pháp tấn công thành Hà Nội lần thứ hai, hay Võ Thánh Miếu được xây dựng tại kinh đô Huế, dưới thời Vua Minh Mạng.
Vậy, Võ Miếu ở nước ta thờ những ai?
Ngược dòng lịch sử, có thể thấy những ghi chép trong bộ sử “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” do các sử quan nhà Nguyễn chép về việc Võ Miếu ở kinh thành Thăng Long được lập năm 1740 (thời Vua Lê Hiển Tông), theo lệnh chúa Trịnh Doanh. Võ Miếu được miêu tả như sau: "Vị chính giữa thờ Võ Thành vương Thái công Vọng, còn từ Tôn Võ Tử, Quản Tử trở xuống 18 người phân phối thờ ở hai bên Đông vũ và Tây vũ. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn được thờ theo vào Võ Miếu. Lập miếu riêng thờ Quan Công nhà Hán. Hằng năm, mùa xuân, mùa thu hai kỳ tế, đều dùng ngày mậu vào thượng tuần. Cấp cho mỗi miếu một ấp dân hộ, để cung phụng việc thờ tự".
Còn danh tướng nổi tiếng trung nghĩa Lê Lai, người từng lấy thân mình để cứu mạng Vua Lê Thái Tổ, vào năm 1761, được vua Lê, chúa Trịnh cho thờ ở miếu Quan Công, chứ không phải trong Võ Miếu.
Sau khi Vua Gia Long lên ngôi và chuyển kinh đô về Huế, Võ Miếu Thăng Long vẫn tồn tại cho đến hết triều Nguyễn. Vị trí Võ Miếu được xác định là ở phía Tây Nam kinh thành (quãng giáp nhau giữa đường Điện Biên Phủ và Hoàng Diệu ngày nay).
Ở kinh thành Huế, từ năm Gia Long thứ 9 (1810), triều Nguyễn mới bắt đầu dựng miếu thờ Công thần trung hưng, đặt miếu phu, làm đồ thờ, hằng năm mùa xuân, mùa thu tế sau ngày tế Mậu (tức ngày tế Thái công Vọng ở Võ Miếu).
Còn Võ Miếu, phải đến tháng 7 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), triều Nguyễn mới bắt đầu chuẩn bị xây dựng. Theo bộ sử “Đại Nam thực lục” thì Vua Minh Mạng bảo Bộ Lễ rằng: “Văn võ hai đường không thể riêng bỏ một bên nào. Quan võ có người xông pha tên đạn, huyết chiến ở chốn sa trường, ra sức vì nhà nước, chẳng hạn như gần đây Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân dẹp yên giặc Xiêm, làm cho mạnh mẽ biên giới. Công họ đáng ghi vào sử sách, đợi đến sang năm sẽ bàn dựng Võ Miếu, mở khoa thi võ, lập bia công thần, để cho quan võ đều biết cảm kích phấn khởi. Như thế thì 2 đường văn võ đều cùng cử hành, đủ để làm phép cho đời sau. Bộ ngươi nên ghi lấy”.
Năm sau, nhà Võ Miếu bắt đầu được xây dựng tại ấp Nội Súng, huyện Hương Trà (gần Văn Thánh Miếu). Quy mô miếu gồm một tòa cái chính đường, một nhà tiền tế, hợp làm một tòa. Nhà chính đường 3 gian, 2 chái; nhà tiền tế 5 gian. Hai tòa nhà thờ phụ (tòng tự) ở hai bên tả, hữu đều 5 gian. Bốn bề chung quanh xây tường gạch, mặt trước xây một nghi môn, hai bên tả hữu đều có 1 cửa tò vò.
Về danh sách thờ phụng thì gian chính giữa thờ Chu thượng phụ Khương Thái Công; giải vũ bên Đông thờ Tề tướng quốc Quản Trọng, Ngô Thượng tướng Tôn Vũ Tử, Hán Đại tướng Hàn Tín, Đường Vệ công Lý Tĩnh, Đường Thái úy Lý Thịnh, Minh Đại tướng quân Từ Đạt; giải vũ bên Tây thờ Tề đại tư mã Điền Nhương Thư, Hán Lưu hầu Trương Lương, Hán Thừa tướng Gia Cát Lượng, Đường Trung thư lệnh Quách Tử Nghi, Tống Thiếu bảo Nhạc Phi.
Các danh tướng Việt Nam các thời đại được thờ phụng ở hai nhà tả vũ, hữu vũ của Võ Miếu. Trong đó, nhà tả vũ thờ Thái sư, Thượng quốc công Trần Quốc Tuấn thời Trần, khai quốc công thần của triều Nguyễn - Thái bảo Anh quốc công Nguyễn Hữu Tiến, Tá vận tôn thần Tôn Nhân phủ tả tôn chính Lạng Giang quận công Tôn Thất Hội. Nhà hữu vũ thờ tư mã công Lê Khôi của triều Lê sơ, các khai quốc công thần triều Nguyễn là Thái phó Tĩnh quốc công Nguyễn Hữu Dật và Tá vận công thần Thái bảo Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương. (Danh sách này không gồm các vị vua có nhiều võ công như Trần Thánh Tông, Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông... vì các vị này đã được thờ ở miếu Lịch đại đế vương).
Về danh sách các vị được thờ tự, Bộ Lễ xin rằng: “Nay xin chọn đất ở ngoài kinh thành, dựng nhà Võ Miếu để thờ cúng. Bài vị Chu Thượng phụ Khương Thái công không cần phải noi theo danh hiệu là Võ Thành vương (được phong tặng ở đời sau), nhưng vẫn cứ liệt vào hàng đầu các vị được thờ. Còn như các danh tướng từ Xuân Thu liệt quốc trở về sau, đều không phải là môn đệ đích thân học tập nơi Thái công, chẳng nên nhất khái gọi là “phối triết”. Trong ấy như Tôn Võ tử, Điền Nhương Thư, Quản Trọng, Lý Tĩnh đều có làm binh thư và có võ công. Trương Lương, Hàn Tín, Gia Cát Lượng, Quách Tử Nghi, Lý Thịnh, cũng đều tinh thông thao lược, sự nghiệp rõ ràng. 9 người ấy liệt thờ ở giải vũ Đông và giải vũ Tây trong nhà chính đường, đều xưng danh tướng các triều đại; ghi rõ họ, tên chức, hàm”.
Bộ Lễ triều Nguyễn cũng xin không thờ 5 vị tướng là Phạm Lãi, Nhạc Nghị, Lý Tích, Bạch Khởi và Ngô Khởi; đồng thời xin thờ Nhạc Phi vì sự trung nghĩa. “Tống Nhạc Phi là người tinh trung, có mưu lược, lập được nhiều kỳ công, vốn làm cho người Kim xao xuyến, sợ hãi. Nếu chẳng vâng theo chiếu chỉ, rút quân về thì có thể tính ngày lấy lại được Trung Nguyên. Võ công ấy, thực không nên bưng bít vì nửa chừng dở dang”. Ngoài ra, xin thờ cả Lưu Cơ và Vương Thủ Nghĩa, vì: “Lưu Cơ đời Minh có mưu lạ, kế hay, nổi tiếng như là Tử Phòng và Gia Cát, công lao giúp nước bao trùm cả một đời. Vương Thủ Nhân nghĩ ra mưu lạ, đánh vỡ giặc mạnh, bắt Thần Hào, dẹp yên Điền Châu, bình 8 trại. Sử khen Thủ Nhân là có công với xã tắc. 3 người này thực là đại danh tướng đời Tống, đời Minh. Còn Nhạc Phi từ trước đến nay, không được dự vào Võ Miếu, có lẽ vì nhà Nguyên diệt nhà Tống rồi, không chọn lấy bầy tôi nhà Tống, mà Lưu Cơ và Vương Thủ Nhân thì lại ở sau khi Võ Miếu đã bãi bỏ. Nay chính nên nêu ra để bổ sung vào chỗ điển lễ còn thiếu. Vậy xin nên đặt bài vị 3 người này mà thờ ở hai bên giải vũ, đặt ngang hàng với các danh tướng như Tôn Võ tử, Nhương Thư, cộng 12 người. Vả, Vương Thủ Nhân đã được thờ ở Văn Miếu, song là vì người văn võ toàn tài nên lại xin thờ vào Võ Miếu nữa”.
Còn về việc chọn các danh tướng nước ta để thờ trong Võ Miếu được triều đình bàn tính rất kỹ: “Nước ta mở bờ cõi từ Đinh, Lê, Lý, Trần đến nay, cũng chẳng thiếu gì lương tướng. Triều ta (triều Nguyễn) các công thần từ khai quốc đến trung hưng, công nghiệp rõ ràng đều có sử sách ghi chép, có thể khảo được. Có lẽ, nên kén lấy những người trội hơn, chia ra thờ phụ ở nhà tả hữu vũ; song việc này mới bắt đầu, chưa dám khinh suất bàn vội”.
Vua Minh Mạng dụ rằng: “Điều cốt yếu trị nước là cả văn lẫn võ, không thể riêng bỏ một bên nào. Việc đặt ra Võ Miếu là lẽ nên làm. Lời bàn của bộ phần nhiều đã ổn thỏa cả, trong ấy nêu ra những danh tướng được thờ vào Võ Miếu như Lưu Cơ nhà Minh tuy có mưu lạ, kế hiểm, song chỉ là bí mật tham dự ở nơi màn tướng, chứ không có võ công chiến đấu rõ ràng. Vương Thủ Nhân là một danh Nho đời Minh, tuy có công phá giặc, nhưng đã được thờ phụ ở Văn Miếu rồi thì chẳng nên lại biểu dương về võ công nữa. Vậy, những người ấy không nên liệt vào Võ Miếu. Có Từ Đạt nhà Minh là khai quốc nguyên huân giữ toàn vẹn được từ trước đến sau, đáng nên được thờ phụ, cộng với các danh tướng các triều đại, từ Tôn Võ tử đến Nhạc Phi tất cả 11 người đã được lựa, liệt vào thờ ở giải vũ Đông, Tây nhà Võ Miếu, đều là xứng đáng”.
Còn về danh sách các danh tướng nước ta, Bộ Lễ bàn lại rằng: “Tra trong sử ký các triều đại An Nam và Thực lục bản triều đã chép về sự trạng các công thần khai quốc và trung hưng, thì xin thờ các danh tướng triều trước gồm Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Đinh Liệt, Lê Khôi, Hoàng Đình Ái”. Về thời chúa Nguyễn, bộ thần xin thờ các danh tướng Đào Duy Từ, Tôn Thất Thuần, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật. Thời chúa Nguyễn Ánh thì xin thờ Chu Văn Tiếp, Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Hoàng Đức.
“Bấy nay, những công thần trong họ thân hoặc có công lao của bản triều có 25 người được thờ phụ ở Thái miếu và Thế miếu; những công thần toàn quốc có 16 người được thờ phụ ở miếu Lịch đại đế vương, cộng tất cả là 41 người. Duy có 13 người trên đây, võ công trội hơn những người cùng hàng. Vậy nghĩ nên chọn lấy thờ phụ vào hai bên giải vũ ở Võ Miếu. Riêng về Lý Thường Kiệt đã tự hoạn nhưng làm nên võ công rực rỡ thì tưởng cũng không nên hiềm vì điều đó. Vậy, nghĩ cũng nên thờ cả”, lời tấu nêu rõ.
Vua Minh Mạng xem lời tâu, bình luận rằng: “Những người được thờ ở Võ Miếu tất phải là bậc có công liệt rõ ràng, giữ trọn trước sau, mới đủ để nêu rõ ý nghĩa thờ tự và làm gương lâu dài cho sau này. Tựu trung, Lý Thường Kiệt nhà Lý tuy ưu việt về phần võ lược nhưng xuất thân từ hoạn quan. Còn như Trần Nhật Duật, Đinh Liệt và Hoàng Đình Ái cũng chỉ là những tướng đánh thành, phá trận, trội hơn mọi người một thời đó thôi, rút lại vẫn chưa được mười phần rực rỡ. Duy có Trần Quốc Tuấn nhà Trần tinh thông binh pháp, hai lần đánh tan quân Nguyên; Lê Khôi đời nhà Lê cũng nhiều lần đánh bại quân Minh, hai lần dẹp yên Chiêm Thành. Thao lược và oai vọng của hai người đó vang dội khắp nơi, mọi người đều nghe biết. Khi bản triều mới khai quốc, Đào Duy Từ bàn mưu ở nơi màn trướng; Tôn Thất Thuần điều khiển quân cơ, công thì to thật, nhưng bảo là võ liệt cao tột thì chưa đáng. Duy có Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến ra quân kỳ, khống chế địch, nhiều lần đánh phá được quân giặc, đáng là danh tướng một đời. Đến thời trung hưng, Nguyễn Hoàng Đức tuy có tiếng là hổ tướng, nhưng so sánh lựa lấy hạng trội hơn cả mọi người thì chưa bằng Tôn Thất Hội theo đòi bên ngựa, từng trải chiến trường, công trạng to tát rõ ràng; Nguyễn Văn Trương biết hướng về nơi sáng, theo con đường chính, theo đi đánh dẹp, đi tới đâu có công đến đó; sự nghiệp của họ rực rỡ hơn cả”.
Sau đó, nhà vua chuẩn định: Trong danh tướng các triều đại trước thì lựa lấy Trần Quốc Tuấn và Lê Khôi; trong danh tướng thời các chúa Nguyễn thì lựa lấy Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến, Tôn Thất Hội và Nguyễn Văn Trương, tất cả 6 người, liệt vào thờ phụ ở giải vũ tả hữu nhà Võ Miếu.
Võ Miếu làm xong, triều đình cho mộ lấy 20 người dân ngoại tịch ở gần miếu, sung làm thủ hộ; hằng năm cứ mùa xuân và mùa thu làm lễ tế sau một ngày hôm tế miếu Lịch đại đế vương. Lễ phẩm ngày tế dùng 1 con trâu, 1 con dê, 2 con lợn và 5 mâm xôi.
Các kỳ tế lớn ở các đền, miếu của triều Nguyễn được quy định như sau: Hằng năm, vào tháng 2, trung tuần; thì chọn ngày có hàng Can là Mậu, tế Xã tắc; ngày Quý, tế đền Lịch đại đế vương. Vào hạ tuần tháng 2, ngày Đinh, tế Văn Miếu; ngày Kỷ, tế Võ Miếu. Đến tháng 8, thượng tuần, ngày Mậu, tế Xã tắc; ngày Quý, tế Lịch đại đế vương; trung tuần, ngày Đinh, tế Văn Miếu; ngày Kỷ, tế Võ Miếu.
Tuy nhiên, do thời gian và chiến tranh, Võ Miếu ở Huế đã bị tàn phá, hiện chỉ còn lại những hàng bia đá ghi công trạng các võ tướng cùng một số bia ghi danh các võ trạng nguyên triều Nguyễn mà thôi.
Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/kinh-te-van-hoa-the-thao/vo-mieu-tho-ai--i702928/