Vũ điệu giữa non ngàn
Giữa non ngàn, các cô gái dân tộc Cor say sưa trong điệu cà đáo, hòa cùng nhịp chiêng ngân vang. Qua bao đời vẫn thế, điệu cà đáo được đồng bào Cor ở huyện Trà Bồng trao truyền, gìn giữ như là vốn quý, không thể thiếu trong đời sống.
Nét đẹp từ ngàn xưa
Từ xa xưa, người Cor đã tạo ra nhiều loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian vô cùng phong phú, giàu bản sắc, được gìn giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ. Cùng với các điệu dân ca cà lu, xà ru, a giới, a lát, tấu chiêng, nghệ thuật cà đáo ra đời xuất phát từ quan điểm tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”. Tương truyền rằng, trên trời là nơi ngự trị của thần Mặt Ngây (cha con Che Ri), dưới nước là nơi ở của Bà Nước (hai con gái của thần Che Ri). Mặt đất dành riêng cho con người. Cứ đến ngày tết năm, tết mùa là đâm trâu, mổ heo, làm lễ cúng các thần và thần Mặt Ngây. Năm nào cúng hậu thì trời đất thuận hòa, mưa gió phải thời, lúa bắp nhiều không kể xiết, con heo, con gà nuôi cũng mau lớn, làng nóc chẳng có bệnh tật, tang chế gì.. Tuy nhiên, năm nọ, lúa bắp đang kỳ xanh tốt, thì bỗng nhiên nắng cháy cả, cỏ úa, cây chết, suối cạn. Dân làng chưa hiểu sao thì một đêm, già Đihk nghe tiếng nói: - Ơ già Đihk, Mặt Ngây truyền dân làng khi làm lễ cúng thần phải thật vui, có trâu mập, heo trắng, gà đen, rượu đoak đầy ché và phải ca hát nhộn nhịp thì trời mới mưa... Thần Mặt Ngây và các thần trên trời nhìn xuống thấy vui quá cười chảy nước mắt thành mưa. Thiên Lôi cười rũ rượu làm rơi búa thần thành sấm sét.
Chính vì vậy, trước hết, nghệ thuật trình diễn tấu chiêng, cà lu, cà đáo ra đời để phục vụ thần linh. Điều đó khẳng định, nghệ thuật trình diễn dân gian cà đáo của người Cor đã có từ lâu đời nhưng không xác định được thời gian cụ thể. Theo tiếng Cor, cà đáo có nghĩa là múa. Cà đáo thường diễn ra trong lễ hội ăn trâu, lễ cưới, lễ cầu an ở gia đình, tết Ngã rạ (lễ ăn lúa mới), Lễ hội Điện Trường Bà, trong đời sống sinh hoạt lao động, sản xuất của người Cor.

Đội cồng chiêng, cà đáo xã Trà Sơn (Trà Bồng) biểu diễn tại Lễ hội Điện Trường Bà. Ảnh: NHỊ PHƯƠNG
Một đội cà đáo bao gồm cả đội tấu chiêng (nam thực hiện) và đội cà đáo (nữ thực hiện). Nếu không có tiếng chiêng, tiếng trống thì không thể thực hiện điệu cà đáo. Người trình diễn điệu cà đáo là phụ nữ, bởi họ vừa có thể thực hiện các động tác múa điêu luyện, dễ dàng, đồng thời trong quá trình múa có thể khoe dáng dấp, vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng của người phụ nữ. Vì vậy, số đông phụ nữ dân tộc Cor đều biết biểu diễn cà đáo. Mặc dù cuộc sống có nhiều đổi thay, song nghệ thuật trình diễn dân gian cà đáo của người Cor vẫn được gìn giữ theo lối cổ truyền, nguyên sơ của hàng nghìn năm trước. Theo thống kê, hiện có 13/16 xã, thị trấn ở huyện Trà Bồng vẫn còn bảo tồn điệu cà đáo. Mỗi xã đều có một đội cà đáo, một đội cồng chiêng, khoảng từ 15 - 30 người.
Vốn quý của dân tộc Cor
Để thực hiện nghệ thuật trình diễn dân gian cà đáo trong các lễ tế và các buổi sinh hoạt cộng đồng, thì công đoạn chuẩn bị được người Cor thực hiện tỉ mỉ. Ngoài không gian múa, cây nêu, gubla, lễ vật, muốn điệu cà đáo đẹp phải chuẩn bị nhạc cụ và trang phục, trang sức cho người múa và người tấu chiêng, trống với mục đích kết nối con người với thần linh, để thần linh hài lòng. Nhạc cụ truyền thống và quan trọng nhất của dân tộc Cor cũng như cà đáo là bộ chiêng. Chiêng của các dân tộc ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên nói chung và đồng bào Cor nói riêng là nhạc cụ linh thiêng và phổ biến; được dùng chủ yếu trong lễ tế, lễ hội và do nam giới diễn tấu. Người dân ở đây tin rằng, trong mỗi cái chiêng đều có “thần”. Khi mua chiêng về phải cúng hồn chiêng. Trước khi đưa chiêng ra sử dụng, người Cor phải cúng chiêng và đánh phép. Đặc biệt, không được đường đột mang chiêng ra khỏi nhà. Bộ chiêng của người Cor gồm hai chiếc chiêng không có núm. Chiêng lớn còn gọi là chiêng đực, chiêng chồng. Chiêng nhỏ là chiêng cái, chiêng vợ. Trống là nhạc cụ do người Cor tự tạo. Tang trống là một khúc gỗ khoét rỗng bên trong, ở giữa to, hai đầu vuốt nhẹ. Mặt trống căng bằng da mang.

Các cô gái dân tộc Cor uyển chuyển trong điệu cà đáo. Ản: N.PHƯƠNG
Đội cà đáo đều là phụ nữ trong trang phục truyền thống váy, áo kết hợp với bộ cườm trang sức. Áo màu trắng, trang trí hoa văn màu đỏ, vàng ở gấu áo, tay áo và cổ áo. Váy dạng hình ống, màu xanh hoặc màu đen chàm. Gấu váy được trang trí các hoa văn có màu sắc xanh, đỏ. Đi kèm với trang phục truyền thống là bộ cườm ngũ sắc được kết nhiều hạt nhỏ khác nhau hết sức cầu kỳ, tỉ mỉ. Bộ cườm gồm có cườm đầu, cườm cổ, cườm hông và các tua màu. Trong đó, đặc sắc nhất là bộ cườm hông, góp phần tôn lên những đường cong uyển chuyển, vẻ đẹp, sự duyên dáng xen lẫn sự khỏe mạnh, điêu luyện trong động tác cà đáo của những cô gái, phụ nữ Cor.
Nghệ nhân nhân dân Hồ Ngọc An, ở xã Trà Thủy (Trà Bồng) cho biết, nghệ thuật trình diễn dân gian cà đáo của người Cor có từ lâu đời, với mục đích làm vui lòng thần linh trong các lễ hội, lễ tế của địa phương. Sau đó, con người mới thưởng thức. Bí quyết của điệu múa này là sự phối hợp nhịp nhàng giữa tay, chân và thân người, nếu không điệu múa sẽ bị cứng và không đẹp, không hay. Điều quyết định điệu múa đẹp hay xấu phụ thuộc theo làn điệu chiêng, trống. Cứ ba nhịp tay thì một nhịp chân.
Đối tượng đánh chiêng là đàn ông, thanh niên vạm vỡ, khỏe mạnh trong làng. Đội cà đáo đều là nữ. Người trình diễn cà đáo không phân biệt lứa tuổi, già trẻ, không giới hạn số lượng người tham gia, tùy theo tính chất lễ hội. Số lượng người đảm nhiệm thường khoảng từ 8 - 12 người trở lên. Tùy vào địa bàn cư trú khác nhau, người Cor phân thành hai dòng cà đáo chính. Đó là cà đáo Truốk Đhăk, nghĩa là cà đáo đường nước (cà đáo vùng thấp); cà đáo Truốk Gôk, nghĩa là cà đáo đường rừng (cà đáo vùng cao).
Thêm 3 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Nghệ thuật cà đáo cùng với Tết Ngã rạ của người Cor ở huyện Trà Bồng; hát talêu và hát ca choi của người Hrê ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà và Minh Long vừa được Bộ VH-TT&DL quyết định đưa vào danh mục di sản phi vật thể quốc gia.
Tính đến nay, Quảng Ngãi có 13 di sản văn hóa được đưa vào danh mục di sản phi vật thể quốc gia.
Nghệ thuật trình diễn dân gian cà đáo của người Cor ra đời trong quá trình hình thành, lao động và phát triển vùng đất Trà Bồng. Nó gắn liền với tư tưởng tín ngưỡng đa thần, gắn với nghề trồng lúa rẫy. Đó chính là nền tảng nghệ thuật múa dân gian ban đầu của người Cor nói riêng và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung. Vì vậy, nghệ thuật trình diễn dân gian cà đáo là một trong những di sản văn hóa mang đậm chất bản địa, tính nguyên thủy của vùng núi cao miền Tây Quảng Ngãi nói riêng và là một trong những di sản giá trị mang đậm tính văn hóa địa phương của vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Điệu cà đáo đã tạo nên những giá trị nhất định trong đời sống cộng đồng, nhất là thế giới quan, tính nhân văn của con người đối với con người, của con người đối với thần linh, của con người đối với thiên nhiên. Chính điều đó, cùng với các di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, nghệ thuật trình diễn dân gian cà đáo đã kết nối, cố kết cộng đồng, làng xóm; kết nối tình cảm giữa các thế hệ trong gia đình và trong xã hội.
Nguồn Quảng Ngãi: https://baoquangngai.vn/vu-dieu-giua-non-ngan-53372.htm