Xác lập mô hình tăng trưởng Việt Nam trong kỷ nguyên mới
Đột phá khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng nhấn mạnh: Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính.

Ảnh minh họa.Ảnh: Báo Nhân Dân
Theo lý thuyết nhà kinh tế học người Mỹ Robert Merton Solow (1924-2023), xác định ba yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế, gồm vốn, lao động và tiến bộ công nghệ. Trong đó, tiến bộ công nghệ là yếu tố tác động đến tăng trưởng dài hạn nếu biết tích hợp với nhân khẩu, khấu hao, tiết kiệm hợp lý sẽ tạo ra các “điểm vàng” mới nhờ “đột phá” về công nghệ. Lý thuyết mô hình tăng trưởng nội sinh Robert E.Lucas (1937-2023), nhà khoa học người Mỹ xác định 3 yếu tố, gồm: Vốn, lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP). Trong đó, TFP là yếu tố tăng trưởng trong dài hạn, tăng trưởng theo chiều sâu.
Như vậy, xét về bản chất, hiểu dưới góc độ lý thuyết, mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt các quan điểm cơ bản nhất về tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối quan hệ giữa chúng. Do đó, việc nhận diện đúng, đầy đủ và khoa học về vị trí và đóng góp của các yếu tố cũng như mối quan hệ giữa chúng là bước đi căn bản xác lập mô hình tăng trưởng Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Để xác định yếu tố, đánh giá mức độ đóng góp, định hình mô hình tăng trưởng Việt Nam, trước hết phân tích mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sau thời điểm Đổi mới (năm 1986) với cách gọi thường nhật là “Mô hình tăng trưởng theo chiều rộng” chủ yếu dựa vào gia tăng số lượng đầu vào vốn, lao động và tài nguyên mà ít đề cập đến thay đổi của công nghệ. Do đó, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế năm 2011 (Văn kiện Đại hội XI) là tất yếu khách quan khi dư địa của vốn, đất đai và tài nguyên không còn là lợi thế.
Giai đoạn 2011-2024, Việt Nam chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, dựa vào sử dụng hiệu quả các yếu tố đầu vào đã đạt được thành tựu... Bên cạnh đó, những đột phá về thể chế là cải cách, thay đổi toàn diện và sâu rộng nhằm loại bỏ các rào cản, nút thắt hiện hữu, từ đó giải phóng các nguồn lực. Đổi mới, cải cách thể chế từng bước tháo gỡ các nút thắt, khơi thông nguồn lực đất đai; lao động; vốn... Trọng tâm tập trung vào các đột phá lớn gắn với 4 nghị quyết của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 57-NQ/TW, số 59-NQ/TW, số 66-NQ/TW, số 68-NQ/TW) đề cập đến các vấn đề cốt lõi như hội nhập, thực thi pháp luật, khoa học, công nghệ và phát triển kinh tế tư nhân.
Đột phá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Yếu tố khoa học và công nghệ trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đòi hỏi một cách tiếp cận học thuật, vượt ra khỏi các khái niệm bề mặt. Sự đột phá về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ là một yếu tố thúc đẩy, còn là một biến nội sinh quyết định bản chất và tốc độ tăng trưởng.
Trong bối cảnh Việt Nam, việc chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa vào tích lũy vốn và lao động sang mô hình dựa vào biến số nội sinh khi các hoạt động đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, giáo dục, đổi mới sáng tạo được tích hợp trực tiếp vào hàm sản xuất. Đột phá không chỉ là sự gia tăng tuyến tính của năng suất mà là sự thay đổi cấp số nhân của hiệu suất đầu tư, tạo ra hiệu ứng lan tỏa trên toàn bộ nền kinh tế.
Việc khơi dậy lòng yêu nước, khát vọng phát triển không chỉ là yếu tố tinh thần mà còn là động lực thực tiễn để thúc đẩy tích lũy vốn nhân lực. Khi khát vọng của người Việt gắn bó với mục tiêu chung của Đảng, Nhà nước, họ sẽ chủ động học hỏi, nâng cao trình độ và đóng góp tích cực vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, giúp nâng cao năng suất hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hình thành kết cấu hạ tầng tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong tương lai. Hệ thống hạ tầng giao thông mở rộng, hạ tầng điện lưới hiện đại hóa, phủ sóng gần 100%, mạng lưới viễn thông băng rộng phổ biến. Việc cải thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật và số, làm giảm chi phí hậu cần, tăng cường kết nối liên vùng, thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giúp Việt Nam nâng cao năng suất, cạnh tranh, như một biến số nội sinh trong xác lập mô hình tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Việc xác lập mô hình kinh tế Việt Nam được định hình trên nền tảng thực tiễn kinh tế kết hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng và phát triển, tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển đổi mô hình nông nghiệp sạch và xây dựng NTM và hiện đại. Đó là sự kết hợp đồng bộ các yếu tố đầu vào, cải cách thể chế, đột phá về khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người... nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và phát triển bền vững.











