Những con đường cho 'kỳ tích' của đất nước

Trong năm 2025, hàng loạt dự án trọng điểm được khởi công, hoàn thành, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ tới phát triển kinh tế – xã hội, mở rộng không gian tăng trưởng cho đất nước.

Khối lượng công việc "chưa từng có"

Đại hội XIII của Đảng xác định phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, trong đó hạ tầng giao thông giữ vai trò then chốt là một trong ba đột phá chiến lược. Nhìn lại nhiệm kỳ 2021-2025, Việt Nam đã tạo nên bước nhảy vọt chưa từng có về hạ tầng giao thông, thể hiện rõ qua quy mô, tốc độ và cường độ tổ chức thực hiện, qua đó mở không gian phát triển và tạo nền tảng cho tăng trưởng dài hạn.

Nếu như trước năm 2020, Việt Nam chỉ có khoảng 900km đường cao tốc thì trong giai đoạn 2021-2025, đến nay đã hoàn thành, thông xe 2.025 km đường cao tốc (gấp gần 2 lần số km đường cao tốc có được trong 20 năm trước nhiệm kỳ), đặc biệt là đã hoàn thành, thông xe kỹ thuật toàn tuyến cao tốc Bắc - Nam từ Cao Bằng đến Cà Mau (so với mục tiêu hoàn thành cao tốc Bắc - Nam phía Đông).

Trong đó, riêng năm 2025 hoàn thành 1.491 km đường cao tốc; 456 km đường quốc lộ; 251 km đường ven biển, đang tiếp tục triển khai cao tốc Cà Mau - Cái Nước, các cao tốc trục ngang như Tân Phú - Bảo Lộc, cao tốc Quy Nhơn - Pleiku, đường giao thông Đất Mũi - Cảng Hòn Khoai,…

Nhà ga hành khách T3 - Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất.

Nhà ga hành khách T3 - Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất.

Bên cạnh đó, ngành Xây dựng cũng đã hoàn thành đầu tư, nâng cấp các cảng hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Phú Bài, Điện Biên,… cơ bản hoàn thành Cảng Hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1, nâng tổng công suất các cảng hàng không trên cả nước từ 92,4 triệu khách năm 2020 lên 155 triệu hành khách vào năm 2025, tăng 1,6 lần so với năm 2020.

Chúng ta cũng đã đưa vào khai thác 3 dự án cảng biển (Lạch Huyện - Hải Phòng, Cái Mép - Thị Vải, Sông Hậu), nâng năng lực hệ thống cảng biển từ 730 triệu tấn năm 2020 lên 900 triệu tấn vào năm 2025, tăng gần 1,3 lần so với năm 2020, góp phần tăng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu qua đường biển, phục vụ phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh và góp phần thực hiện hoàn thành Nghị quyết số 36-NQ/TW về chiến lược phát triển kinh tế biển.

Đặc biệt, nhiệm kỳ vừa qua đã tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đưa vào khai thác 3 tuyến đường sắt đô thị Bến Thành - Suối Tiên, Cát Linh - Hà Đông, đoạn trên cao tuyến Nhổn - ga Hà Nội, cơ bản hoàn thành dự án cải tạo nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh đoạn Vinh - Nha Trang và Nha Trang - Sài Gòn. Đã khẩn trương hoàn thiện thủ tục để khởi công dự án Đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, tuyến số 5 đường sắt đô thị Văn Cao - Ngọc Khánh - Láng - Hòa Lạc, thành phố Hà Nội và tuyến tàu điện đô thị đoạn 1 Phú Quốc, tỉnh An Giang ngày hôm nay. Đồng thời tiếp tục phấn đấu khởi công Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam trong năm 2026.

Về công trình xây dựng dân dụng, theo thống kê của Bộ Xây dựng, so với đầu nhiệm kỳ, tỉ lệ đô thị hóa đến nay đạt 45% (tăng 5% so với 12/2020); dân cư đô thị được cấp nước sạch đạt 94% (tăng 3%); diện tích nhà ở bình quân đạt 30m² sàn/người (tăng 5,6m²),… Từ năm 2021 đến nay, cả nước đã triển khai 698 dự án nhà ở xã hội với quy mô hơn 637.000 căn, trong đó năm 2025 trên cả nước hoàn thành 102.146/100.275 căn nhà ở xã hội (đạt 102% kế hoạch năm 2025), hướng tới đến năm 2030 đạt 01 triệu căn cho người thu nhập thấp; cả nước đã chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát được hơn 334.200 căn và đã về đích sớm trước 5 năm 04 tháng so với mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 42-NQ/TW.

Trong lĩnh vực điện, năng lượng, dầu khí, đã hoàn thành đưa vào khai thác đường dây truyền tải 500 kV mạch 3, mạch 4; Nhà máy điện Nhơn Trạch 3, Nhơn Trạch 4 đánh dấu bước phát triển quan trọng trong lĩnh vực điện khí với công nghệ hiện đại, hiệu suất cao, phát thải thấp,... cùng hàng loạt các công trình, dự án trọng điểm đang được triển khai thần tốc theo đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ góp phần quan trọng, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo đảm quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

Cảng container quốc tế Hateco Hải Phòng (HHIT) tại khu bến cảng Lạch Huyện.

Cảng container quốc tế Hateco Hải Phòng (HHIT) tại khu bến cảng Lạch Huyện.

Chọn đúng con đường để phát triển

Trao đổi với Người Đưa Tin, PGS.TS Nguyễn Hồng Thái - Trưởng Khoa Vận tải - Kinh tế, Trường Đại học Giao thông Vận tải cho rằng, 5 năm qua có thể xem là giai đoạn phát triển hạ tầng giao thông mạnh mẽ nhất trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.

"Trong 5 năm, chúng ta hoàn thành một khối lượng công việc lớn chưa từng có, cả về đường bộ cao tốc, cảng hàng không, cảng biển lẫn đường sắt đô thị. Nhiều dự án trước đây phải mất 10-15 năm mới có thể triển khai thì nay hoàn thành chỉ trong vài năm, thậm chí có những dự án được tháo gỡ thủ tục trong thời gian rất ngắn để kịp thời đưa vào thi công", ông Thái nhấn mạnh.

Theo chuyên gia này, hạ tầng giao thông đã thực sự là khâu đột phá chiến lược trong phát triển đất nước, vừa tạo kết nối không gian phát triển, vừa mở ra dư địa tăng trưởng mới cho các địa phương. Việc khởi công, hoàn thành và đưa vào khai thác nhiều dự án giao thông trọng điểm, trong đó có hơn 2.000 km đường cao tốc, nhất là tuyến cao tốc Bắc – Nam xuyên suốt từ Cao Bằng đến Cà Mau, đã thay đổi căn bản năng lực vận tải quốc gia, rút ngắn thời gian di chuyển giữa các trung tâm kinh tế, thúc đẩy thương mại, logistics, du lịch và thu hút đầu tư.

Đặc biệt, trong giai đoạn dịch COVID-19, khi nhiều hoạt động kinh tế đóng băng, đầu tư cho hạ tầng đã trở thành "cứu cánh" rất quan trọng, giúp duy trì nhịp độ tăng trưởng, tạo việc làm cho hàng triệu lao động trong xây dựng, vật liệu, vận tải; đồng thời chuẩn bị bộ khung hạ tầng để kinh tế phục hồi nhanh sau đại dịch. "Nếu thời điểm đó chúng ta chững lại, có thể mất cơ hội vàng để bứt phá. Việc lựa chọn tập trung cho hạ tầng là quyết sách đúng đắn và mang tính chiến lược", ông Thái nhấn mạnh.

PGS.TS Nguyễn Hồng Thái - Trưởng Khoa Vận tải - Kinh tế, Trường Đại học Giao thông Vận tải.

PGS.TS Nguyễn Hồng Thái - Trưởng Khoa Vận tải - Kinh tế, Trường Đại học Giao thông Vận tải.

PGS.TS Nguyễn Hồng Thái nhấn mạnh, thành tựu phát triển hạ tầng trong 5 năm qua là minh chứng cho sự vào cuộc đồng bộ của Chính phủ, bộ ngành và địa phương, cùng tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đây cũng trở thành nền tảng vững chắc để Việt Nam tiến nhanh hơn trong giai đoạn mới.

Bước vào giai đoạn mới, dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV tiếp tục khẳng định: đột phá hạ tầng tiếp tục là một trong những động lực then chốt của phát triển đất nước.

Theo ông Thái, tư duy quy hoạch được nâng lên tầm chiến lược, lấy phát triển không gian vùng làm trọng tâm, tăng cường kết nối liên vùng, liên ngành.

Mục tiêu không chỉ xây dựng thêm nhiều công trình, mà là hình thành hệ sinh thái hạ tầng hiện đại, thông minh, xanh và bền vững, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

"Đây là con đường để Việt Nam bứt phá nhanh hơn, mạnh hơn trong thập niên tới, tiến gần hơn tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao," PGS.TS Nguyễn Hồng Thái nhấn mạnh.

Thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng giao thông

Theo PGS.TS Trần Chủng - Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam, một điểm nhấn quan trọng trong bức tranh phát triển hạ tầng trong nhiệm kỳ vừa qua là xu hướng ngày càng nhiều doanh nghiệp trong nước tham gia đầu tư vào các dự án hạ tầng giao thông quy mô lớn. Đây là một xu hướng rất tích cực và đáng khích lệ.

"Nhìn lại giai đoạn trước năm 2010, các nhà đầu tư tư nhân chủ yếu tập trung vào lĩnh vực bất động sản với đặc thù lợi nhuận lớn và nhanh chóng thu hồi vốn. Cũng vì hạn chế nguồn lực mà ở một số dự án lớn, chúng ta muốn thực hiện nhưng buộc phải huy động vốn vay ODA hoặc chỉ phân kỳ đầu tư mà không thể triển khai đồng bộ, toàn diện.

Tuy nhiên, trong khoảng 10 năm trở lại đây, đặc biệt là sau sự ra đời của Luật PPP (2020) và Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân, chúng ta đã chứng kiến sự thay đổi rõ rệt khi ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn dịch chuyển nguồn vốn đầu tư sang hạ tầng giao thông – lĩnh vực vốn đòi hỏi tiềm lực tài chính lớn, kinh nghiệm quản lý dày dặn và sự kiên định trong chiến lược phát triển dài hạn", PGS. TS Trần Chủng phân tích.

Theo ông Chủng, xu hướng dịch chuyển này diễn ra trong bối cảnh Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh kêu gọi thu hút đầu tư phát triển hạ tầng, khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia triển khai các công trình giao thông trọng điểm quốc gia. Đồng thời, phương thức đối tác công tư (PPP), mà trong đó Nhà nước và tư nhân cùng phối hợp thực hiện các sản phẩm công để phục vụ xã hội, cũng nở rộ và đạt được nhiều thành công đáng khích lệ, nhất là ở lĩnh vực hạ tầng giao thông với nhiều công trình, dự án mang lại giá trị cao, được dư luận đồng tình, ủng hộ.

PGS.TS Trần Chủng - Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam.

PGS.TS Trần Chủng - Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam.

Theo chuyên gia này, nhờ sự tham gia này đã giúp giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, bởi nguồn vốn xã hội được huy động nhiều hơn vào các dự án hạ tầng quy mô lớn. Không những thế, nhờ cơ chế thị trường, các dự án có sự tham gia của tư nhân thường được triển khai với tiến độ nhanh hơn, chi phí hợp lý hơnvà chất lượng công trình được bảo đảm. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Đối với chính doanh nghiệp, việc tham gia vào các dự án hạ tầng quy mô lớn mang lại cơ hội nâng cao năng lực quản trị, ứng dụng công nghệ hiện đại, mở rộng kinh nghiệm trong tổ chức thi công và quản lý dự án. Qua đó, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường cũng được củng cố, đồng thời năng lực cạnh tranh được nâng lên một tầm cao mới. Nhiều doanh nghiệp đã chứng minh rằng, khi dấn thân vào lĩnh vực hạ tầng, họ không chỉ tìm kiếm lợi nhuận trước mắt mà còn xây dựng nền tảng phát triển dài hạn và bền vững.

"Nhờ xu hướng này, nhiều doanh nghiệp Việt đã thể hiện rõ năng lực, tinh thần tiên phong và khát vọng đồng hành cùng sự phát triển đất nước. Điều này không chỉ phản ánh sự trưởng thành về kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt, mà còn đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc khẳng định vai trò khu vực tư nhân trong các dự án hạ tầng chiến lược quốc gia", PGS. TS Trần Chủng khẳng định.

PGS.TS Trần Chủng cho rằng để xu hướng doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, đặc biệt là cơ chế PPP theo hướng ổn định, minh bạch và dễ dự đoán. Đây là điều kiện tiên quyết để nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn vào các dự án có thời gian thu hồi vốn dài, biên độ rủi ro lớn.

Bên cạnh đó, cần có thêm chính sách hỗ trợ về tín dụng, ưu đãi thuế và tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn dài hạn với lãi suất phù hợp, nhất là đối với các doanh nghiệp Việt Nam đang trong giai đoạn tái cơ cấu nguồn lực để chuyển dịch sang lĩnh vực hạ tầng.

Lê Mạnh Quốc

Nguồn Người Đưa Tin: https://nguoiduatin.vn/nhung-con-duong-cho-ky-tich-cua-dat-nuoc-20425122913005352.htm