Xác suất các ngân hàng trung ương toàn cầu trì hoãn cắt giảm lãi suất đang tăng lên
Các nhà đầu tư đang đẩy lùi kỳ vọng về việc cắt giảm lãi suất trên toàn thế giới, khi cuộc chiến của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với lạm phát đã làm phức tạp thêm kế hoạch nới lỏng của các ngân hàng trung ương khác.
Khi Mỹ báo cáo về một loạt số liệu lạm phát cao hơn kỳ vọng, các thị trường đã điều chỉnh lại dự báo về việc cắt giảm lãi suất của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng trung ương Anh (BoE), cũng như của cả Fed.
James Knightley, nhà kinh tế quốc tế trưởng tại ING cho biết: “Vấn đề lạm phát của Fed có quy mô toàn cầu và các ngân hàng trung ương khác không thể bỏ qua… Đặc biệt, nếu Fed không thể sớm cắt giảm lãi suất, điều đó có thể làm tăng sức mạnh của đồng đô la, gây căng thẳng cho nền kinh tế châu Âu và hạn chế khả năng cắt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương khác”.
“Thêm vào đó, người ta lo ngại rằng những gì đang xảy ra với lạm phát ở Mỹ cũng có thể xuất hiện ở châu Âu”, ông cho biết thêm.
Tuy nhiên, các quan chức cấp cao tại ECB và BoE cho rằng họ không phải đối mặt với vấn đề lạm phát giống như ở Mỹ, ngụ ý rằng họ có nhiều cơ hội hơn để cắt giảm lãi suất sớm hơn.
Nhưng những thay đổi trên thị trường tương lai cho thấy tác động toàn cầu của vấn đề lạm phát dai dẳng ở Mỹ.
Thị trường tương lai hiện kỳ vọng ECB sẽ cắt giảm lãi suất trung bình khoảng 70 điểm cơ bản trong năm nay, bắt đầu từ cuộc họp chính sách tiếp theo vào ngày 6/6. Hồi đầu năm, khi lạm phát ở Mỹ có dấu hiệu đi xuống vững chắc hơn, thị trường tương lai đã dự kiến ECB sẽ cắt giảm lãi suất 163 điểm cơ bản trong năm nay.
Các thị trường hiện dự đoán BoE sẽ cắt giảm lãi suất 44 điểm cơ bản trong năm nay so với 172 điểm cơ bản vào đầu năm.
Bối cảnh của sự thay đổi này là do thị trường giảm bớt kỳ vọng đối với Fed và dự kiến Fed sẽ giữ lãi suất ở mức cao nhất trong 23 năm tại cuộc họp chính sách vào tuần tới. Trong khi vào đầu năm, các nhà đầu tư đã kỳ vọng Fed sẽ có tới 6 lần cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản thì hiện tại chỉ còn kỳ vọng 1 hoặc 2 lần.
Mỹ và châu Âu từng đưa ra chiến lược nới lỏng khác nhau trong quá khứ. Nhưng nếu các khu vực khác cắt giảm lãi suất mạnh mẽ hơn Fed, họ có nguy cơ gây tổn hại cho nền kinh tế của chính mình vì ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, chi phí nhập khẩu và lạm phát.
Nathan Sheets, nhà kinh tế trưởng tại Citi cho biết: “Có một trường hợp vĩ mô tốt cho sự phân kỳ, nhưng cuối cùng cũng có giới hạn về mức độ có thể đi xa… Việc ECB cắt giảm mạnh mẽ trong môi trường mà Fed đang chờ đợi là thách thức hơn”.
Lạm phát dai dẳng
Chủ tịch Fed Jerome Powell mới đây cho biết rằng, lạm phát của Mỹ sẽ “mất nhiều thời gian hơn dự kiến” để đạt được mục tiêu, báo hiệu rằng chi phí đi vay sẽ cần duy trì ở mức cao lâu hơn so với suy nghĩ trước đây.
Trong số liệu được công bố hôm thứ Sáu (26/4), chỉ số lạm phát ưa thích của Fed đã cao hơn dự kiến ở mức 2,7% trong tháng 3 và một số ít nhà đầu tư thậm chí còn cho rằng Fed có thể tăng lãi suất trong 12 tháng tới.
Marcelo Carvalho, người đứng đầu bộ phận kinh tế toàn cầu tại BNP Paribas cho biết, ECB không “phụ thuộc vào Fed” hay “không nhạy cảm với Fed”.
Bất chấp kỳ vọng của thị trường rằng chi phí đi vay cao của Mỹ sẽ hạn chế quyền tự do điều động chính sách, các ngân hàng trung ương hàng đầu châu Âu khẳng định vấn đề lạm phát ít nghiêm trọng hơn của khu vực đòi hỏi một phản ứng khác.
Chủ tịch ECB Christine Lagarde cho biết, “nguồn gốc và động lực” khiến giá cả tăng vọt ở hai khu vực là khác nhau - trong đó châu Âu bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi chi phí năng lượng và Mỹ do thâm hụt tài chính lớn.
Thống đốc BoE Andrew Bailey cũng lập luận rằng động lực lạm phát ở châu Âu “hơi khác” so với Mỹ.
Các quan chức hàng đầu của ECB và BoE đã đưa ra tín hiệu rằng lãi suất sẽ vẫn được cắt giảm vào mùa Hè này, bất chấp dữ liệu lạm phát khiến các nhà đầu tư đặt cược vào đợt giảm lãi suất đầu tiên của Fed vào tháng 11. Sự thay đổi này trái ngược rõ rệt so với đầu năm nay khi Fed được xem là ngân hàng trung ương dẫn đầu xu hướng hạ lãi suất.
Mahmood Pradhan, Trưởng bộ phận kinh tế vĩ mô toàn cầu tại Amundi Asset Management cho biết: “ECB và BoE đang hoạt động trong một môi trường tăng trưởng yếu hơn nhiều, vì vậy tôi nghi ngờ rằng họ sẽ không e ngại về việc cắt giảm lãi suất sớm hơn”.
Đồng euro đã giảm 3% so với đồng đô la kể từ đầu năm xuống còn trên 1,07 mỗi đô la, nhưng các nhà đầu tư đã tăng đặt cược rằng đồng euro có thể giảm xuống ngang bằng với đồng đô la.
Theo nghiên cứu gần đây của ECB, mức giảm như vậy sẽ làm tăng thêm khoảng 0,3 điểm phần trăm vào lạm phát của khu vực đồng euro trong năm tới. Phó chủ tịch ECB, Luis de Guindos cho biết trong tuần này rằng họ sẽ “cần tính đến tác động của biến động tỷ giá hối đoái”.
Mặt khác, tác động sâu rộng của chính sách Mỹ đã được thể hiện rõ ràng ở Nhật Bản, trong khi các nhà đầu tư đang kỳ vọng nhiều hơn rằng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) sẽ cần tiếp tục tăng lãi suất do đồng yên yếu hơn sẽ thúc đẩy lạm phát. Đồng yên đã giảm xuống mức thấp nhất trong 34 năm so với đồng đô la, đẩy giá hàng hóa nhập khẩu lên cao.
Tuy nhiên, một số nhà hoạch định chính sách EU lập luận rằng nếu Fed cứng rắn hơn dẫn đến các điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt hơn, thì điều đó có thể thúc đẩy khả năng nới lỏng tiền tệ ở khu vực đồng euro và các nơi khác.
“Việc thắt chặt ở Mỹ có tác động tiêu cực đến lạm phát và sản lượng ở khu vực đồng euro…điều này có khả năng củng cố khả năng cắt giảm lãi suất hơn là làm suy yếu nó”, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Ý Fabio Panetta cho biết.
Chính sách chặt chẽ hơn của Mỹ cũng ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu toàn cầu. BNP Paribas ước tính rằng nếu lợi suất trái phiếu châu Âu tăng cao hơn 0,5 điểm phần trăm do ảnh hưởng từ thị trường Mỹ, thì ECB sẽ phải cắt giảm lãi suất thêm 0,2 điểm phần trăm để bù đắp tác động của các điều kiện tài chính thắt chặt hơn. Tương tự, điều này cũng sẽ yêu cầu BoE cắt giảm lãi suất thêm 0,13 điểm phần trăm.
Tomasz Wieladek, chiến lược gia tại T Rowe Price lập luận rằng, ECB và BoE “cần tích cực chống lại việc thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu này để đưa điều kiện tài chính trong nước phù hợp hơn với các nguyên tắc cơ bản trong nền kinh tế của mình”.