Xanh hóa chiến lược quốc gia: Việt Nam tái xác lập vị thế toàn cầu
Sau cam kết đưa phát thải ròng về '0' (Net-zero) vào năm 2050 tại COP26, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng lộ trình triển khai chi tiết, thể hiện qua các văn bản pháp lý và kế hoạch hành động. Trong đó, giải pháp hợp tác công – tư, kết hợp liên kết quốc kế để chuyển giao công nghệ được kỳ vọng sẽ tái định vị vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị xanh toàn cầu.
Nỗ lực biến cam kết thành hành động
Biến đổi khí hậu diễn biến khó lường, gây thiệt hại nặng về kinh tế, môi trường và ảnh hưởng sâu sắc đến sinh kế của người dân những năm gần đây, khiến yêu cầu nâng cao khả năng chống chịu và thích ứng trở thành vấn đề sống còn với các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Theo đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng yêu cầu phải chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xanh, kinh tế carbon thấp, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Tới dự thảo văn kiện Đại hội XIV, yêu cầu bảo vệ môi trường, thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, xây dựng thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn gắn với phát triển kinh tế - xã hội được nâng lên thành nhiệm vụ trọng tâm - thể hiện tầm nhìn chiến lược về phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột, gồm: kinh tế, xã hội, môi trường.

Theo quy hoạch TPHCM giai đoạn 2021-2030, huyện Cần Giờ (cũ) sẽ trở thành đô thị sinh thái, bảo tồn khu dự trữ sinh quyển, tập trung phát triển kinh tế biển, đặc biệt là cảng trung chuyển và khu thương mại tự do; vận tải logistics, du lịch, đô thị sinh thái biển và năng lượng tái tạo. Ảnh: Lê Vũ
Khoảng thời gian giữa hai kỳ Đại hội, Chính phủ và các bộ, ban, ngành đã có nhiều hành động cụ thể nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xanh và tuần hoàn.
Theo đó, sau cam kết Net – Zero vào năm 2050 tại Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP) lần thứ 26, Việt Nam đã có nhiều chính sách và giải pháp pháp tăng cường khả năng chống chịu trước tác động của biến đổi khí hậu. Ở cấp Chính phủ, các văn bản như: Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (NAP); Hệ thống giám sát và đánh giá các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu cấp quốc gia (M&E); Chỉ thị về tăng cường công tác quản lý tín chỉ carbon nhằm thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định… đã được ban hành.
Ở cấp bộ, ngành, Bộ Tài nguyên & Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp & Môi trường - NN&MT) đã ban hành nhiều Thông tư hướng dẫn việc quản lý Nhà nước về biến đổi khí hậu nhằm cụ thể hóa những chính sách này.
Việt Nam cũng ký kết thỏa thuận Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) vào tháng 12-2022 – một sáng kiến quốc tế nhằm huy động nguồn lực tài chính và công nghệ cho chuyển đổi xanh. Theo thỏa thuận, nhóm đối tác quốc tế (IPG) cam kết khoản tài chính công và tư ban đầu trị giá 15,5 tỉ đô la cho giai đoạn 2024–2028 (1), nhằm hỗ trợ Việt Nam giảm phát thải ngành năng lượng xuống còn 170 triệu tấn CO2 vào năm 2030, đồng thời nâng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong sản lượng điện lên 47%.
Khoảng trống giữa chính sách và thực tế
Với những nỗ lực của Chính phủ và các cấp quản lý, nhiều sáng kiến và mô hình kinh tế tuần hoàn được triển khai ở các cấp độ khác nhau, từ doanh nghiệp lớn đến cộng đồng.

Vĩnh Long sẽ là trung tâm năng lượng tái tạo cấp vùng sau 5 năm nữa. Ảnh: Quốc Tân
Với lĩnh vực công nghiệp, Nhựa Duy Tân đã đầu tư dây chuyền tái chế nhựa PET hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế, để sản xuất hạt nhựa tái sinh cho trong ngành bao bì thực phẩm. Tương tự, các doanh nghiệp thép như Hòa Phát, Pomina sử dụng phế liệu thép làm nguyên liệu đầu vào.
Thậm chí, số ít khu công nghiệp (KCN) như Amata Biên Hòa đang dần chuyển đổi sang mô hình sinh thái, nơi các doanh nghiệp chia sẻ tài nguyên, năng lượng, nước và chất thải để tạo ra giá trị gia tăng.
Với ngành dệt may, một số doanh nghiệp từng bước đo lường lượng phát thải, tính toán năng suất, số lượng lao động mỗi quy trình và ứng dụng các giải pháp số - xanh vào quản trị.
Với lĩnh vực năng lượng tái tạo (NLTT), Năng lượng mặt trời và gió đã có bước phát triển vượt bậc, từ tỷ trọng gần như bằng 0 vào năm 2018 tới mức 12% và 7% tổng công suất đặt vào năm 2024.
Nhưng ngoài số ít đơn vị tiên phong, số lượng đơn vị áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam còn hạn chế. Kết quả khảo sát của CIEM cho biết chỉ khoảng 36-48,6% doanh nghiệp đã áp dụng một trong số các mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn. Trong đó, nhóm áp dụng các mô hình tái chế, sửa chữa và bảo trì và tân trang, tái sản xuất chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Nhóm áp dụng mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn, gồm: bán sản phẩm theo chức năng, quản lý chuỗi cung ứng xanh, quản lý thu hồi, cộng sinh công nghiệp chỉ chiếm khoảng 3-6%. Thậm chí, gần 38% số doanh nghiệp được khảo sát chưa từng áp dụng bất kỳ mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn.
Những kỳ vọng sau COP30
Trong bối cảnh việc áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam còn nhiều khó khăn, sự kiện bên lề COP30 tại Belém (Brazil) - được đồng tổ chức bởi Bộ NN&MT, WWF-Việt Nam và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp - là một bước đi quan trọng, hướng tới mục tiêu giảm thiểu phát thải carbon trong các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như năng lượng, dệt may, da giày và một số ngành sản xuất khác.

Dự thảo luật về cơ bản đã bao quát được các chính sách lớn như quy hoạch điện lực, thị trường điện và phát triển năng lượng tái tạo, bảo đảm đồng bộ với các luật liên quan. Ảnh: H.P
Với lĩnh vực năng lượng, thông điệp quan trọng được đưa ra tại sự kiện là “sự cần thiết phải đẩy nhanh chuyển đổi năng lượng”. Để làm được này, các đại biểu đều đồng thuận rằng cơ chế hợp tác công – tư trong đầu tư, phát triển lưới điện thông minh và hạ tầng truyền tải là điều cần thiết, giúp Việt Nam tránh được nguy cơ cắt giảm công suất, làm suy yếu toàn bộ kế hoạch chuyển đổi xanh.
Từ góc nhìn chuyên gia, TS Bùi Thanh Minh, Phó giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV), đánh giá Việt Nam có thể tạo “bước nhảy vọt” tại 3 thị trường bền vững, gồm: năng lượng tái tạo, với khả năng dẫn đầu sản xuất hydro xanh lục; công nghiệp xanh, với cụm ngành công nghiệp - nơi tập hợp các doanh nghiệp công nghệ sạch, và doanh nghiệp quy mô lớn giữ vai trò mở địa điểm sản xuất gần nguồn NLTT, giúp giảm chi phí tiếp cận; nhiên liệu xanh và nhiên liệu thay thế.
Do đó, cơ quan quản lý cần xây dựng chính sách lựa chọn có trọng tâm, để thu hút đầu tư tư nhân vào hạ tầng NLTT, góp phần hình thành các doanh nghiệp công nghệ năng lượng quy mô lớn và thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong ngành năng lượng.
Bên cạnh đó, tổ chức triển khai hiệu quả Nghị định số 57/2025 về cơ chế mua bán điện trực tiếp (Direct PPA), cho phép các doanh nghiệp sử dụng điện lớn ký hợp đồng trực tiếp với đơn vị phát điện năng lượng tái tạo.
“Đây là một bước đi quan trọng trong quá trình phát triển thị trường điện cạnh tranh và hình thành các cụm công nghiệp xanh”, ông Minh lưu ý.
Bên cạnh việc xây dựng cơ chế hợp tác công – tư cho lĩnh vực năng lượng, chuyên gia này cho rằng cần tận dụng các cam kết quốc tế để thúc đẩy quan hệ liên minh chuyển đổi về khí hậu và chuyển giao công nghệ. Đồng thời, tận dụng dòng vốn FDI để thúc đẩy chuyển giao công nghệ xanh và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, đẩy mạnh liên kết với các chuỗi cung ứng quốc tế tuân thủ tiêu chuẩn ESG.
Từ góc nhìn nhà đầu tư nước ngoài, ông Olaf Schmidt, Phó Chủ tịch, phụ trách mảng Dệt may và Công nghệ của Tập đoàn Messe Frankfurt, lưu ý số hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) chính là động lực chuyển đổi then chốt, mà các doanh nghiệp cần quan tâm, bên cạnh yếu tố bền vững - hiện là điều kiện bắt buộc.
Theo đó, AI sẽ tạo ra 3 điểm nhấn cho ngành công nghiệp trong 3-5 năm tới, gồm: tốc độ ra thị trường nhanh hơn (faster to market), cho phép các nhà sản xuất rút ngắn chu kỳ từ thiết kế đến sản phẩm hoàn chỉnh; giảm thiểu lãng phí một cách đáng kể, chủ yếu thông qua việc sử dụng các mô phỏng chính xác để loại bỏ nhu cầu về mẫu thử vật lý và đảm bảo độ vừa vặn tối ưu ngay từ đầu; tạo điều kiện cho một mối liên hệ gần gũi hơn giữa nhà sản xuất, ngành công nghiệp, và người tiêu dùng cuối.
“AI không phải là một mối đe dọa mà là một công cụ giúp các doanh nghiệp nâng cao tính cạnh tranh trong tương lai”, Olaf Schmidt nói với KTSG Online.
-------------------------------------
Nguồn tham khảo:
https://vn.usembassy.gov/international-agreement-to-support-vietnams-ambitious-climate-and-energy-goals/
https://www.climatechange.vn/climate_news/the-revised-pdp8-aligns-viet-nams-energy-policy-closer-to-jetp-goals-and-surpasses-ndc-commitments/












