'Xanh hóa' ngành lương thực, thực phẩm để thúc đẩy xuất khẩu

Trong bối cảnh thương mại toàn cầu ngày càng chú trọng đến tính bền vững, ngành lương thực, thực phẩm Việt Nam buộc phải xanh hóa để duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu.

Doanh nghiệp chuyển đổi, làm sạch vùng trồng theo hướng hữu cơ.

Doanh nghiệp chuyển đổi, làm sạch vùng trồng theo hướng hữu cơ.

Xuất khẩu tăng trưởng nhưng chưa bền vững

Năm 2024 xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đạt 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản, sản phẩm chăn nuôi, thủy sản đều có tăng trưởng ấn tượng. Tuy nhiên, đằng sau những con số này là một thực tế đáng lo ngại, phần lớn nông sản Việt Nam vẫn xuất thô, giá trị gia tăng thấp. Chưa kể, việc sản xuất chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn “xanh” mà các thị trường lớn như EU, Nhật Bản... ngày càng siết chặt.

Một số doanh nghiệp đã đạt được thành công ban đầu về sản xuất các sản phẩm “xanh” như: Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) đã tăng uy tín và mở rộng thị phần tại EU, Công ty cổ phần Thành Thành Công - Biên Hòa, Công ty cổ phần Thực phẩm Cholimex... Nhưng phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa trong ngành hàng lương thực, thực phẩm và đồ uống thì chỉ mới đang từng bước thực hiện ESG (khung đánh giá nhằm đo lường tính bền vững và trách nhiệm đối với môi trường, xã hội của doanh nghiệp).

Thiếu nguồn nhân lực kỹ năng cao về công nghệ xanh

Việt Nam còn thiếu nguồn nhân lực có kỹ năng cao về công nghệ xanh và quản lý môi trường. Đối với các doanh nghiệp, chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững đòi hỏi nhân lực có chuyên môn về công nghệ xanh, quản lý môi trường và truy xuất nguồn gốc, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa có đội ngũ chuyên trách về lĩnh vực này.

Sản xuất nông nghiệp phần lớn vẫn phụ thuộc vào các phương pháp canh tác truyền thống, sử dụng nhiều hóa chất và tài nguyên, dẫn đến phát thải cao và ô nhiễm môi trường. Công nghệ chế biến sâu chưa đáp ứng được yêu cầu của các thị trường khó tính. Hơn nữa, việc kiểm kê khí nhà kính - một bước quan trọng để đạt chứng chỉ xanh - vẫn chưa được triển khai đồng bộ. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn chiếm phần lớn trong ngành, gặp khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ xanh do chi phí đầu tư ban đầu cao và thiếu nguồn lực.

Nhận định về thực trạng mà ngành đang phải đối mặt trong năm 2025, bà Lý Kim Chi - Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh (FFA) cho rằng, việc xanh hóa sản xuất đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư vào công nghệ sạch, hệ thống xử lý nước thải, khí thải, cũng như chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn gặp khó khăn về tài chính và chưa tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi.

“Bên cạnh đó, việc áp dụng các mô hình canh tác hữu cơ, truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở giai đoạn cung cấp nguyên liệu đầu vào. Hệ thống hạ tầng phục vụ xử lý chất thải và phát triển năng lượng tái tạo tại một số địa phương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều quốc gia như Thái Lan, Indonesia, Brazil đang đẩy mạnh đầu tư vào sản xuất bền vững, áp dụng công nghệ cao và xây dựng thương hiệu sản phẩm xanh. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp Việt vẫn còn e ngại trước những thay đổi này” - bà Chi nhìn nhận.

Áp lực từ tiêu chuẩn quốc tế

Để bắt kịp với xu hướng xanh của thị trường quốc tế, Hợp tác xã Tam Nông Việt Nam đã phải nhanh chóng thay đổi nguồn gốc và bao bì sản phẩm. Bà Nguyễn Thị Vân Anh - Chủ tịch Hợp tác xã Tam Nông Việt Nam chia sẻ:

“Chúng tôi đang xuất khẩu chủ yếu mặt hàng nông sản như ớt cấp đông, sầu riêng và mít cấp đông... sang thị trường Nhật Bản. Để các sản phẩm được vào nước này thì phải đáp ứng các tiêu chí trong bảng test chất cấm do nước họ đặt ra. Chúng tôi phải chuyển đổi, làm sạch vùng trồng theo hướng hữu cơ. Bên cạnh đó, tất cả các sản phẩm đều đựng bằng bao bì nhôm aluminum để có thể tái chế tái sử dụng, không chứa vi nhựa làm ảnh hưởng sức khỏe con người”.

Ông Nguyễn Đình Tùng - Tổng giám đốc Công ty xuất khẩu trái cây Vina T&T cho biết, sắp tới công ty cũng phải coi lại những tiêu chí về nông nghiệp xanh của thế giới để áp dụng và chuyển mình theo xu hướng của thế giới. Công ty cũng cần thay đổi rất nhiều từ khâu sản xuất đến chế biến để duy trì sự ổn định cũng như đáp ứng được tất cả các tiêu chí trên thị trường xuất khẩu trên thế giới.

Theo ông Bùi Tá Hoàng Vũ - Giám đốc Sở Công thương TP. Hồ Chí Minh, chuyển đổi xanh, sử dụng năng lượng sạch là một trong những thách thức mà các doanh nghiệp Việt phải đối diện kèm theo những khoản chi rất lớn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp không tham gia thực hiện việc chuyển đổi thì rất khó tồn tại, do đó thành phố cũng đã xác định khuyến khích ưu tiên chuyển đổi xanh, sản xuất sạch là một trong những nhóm mà thành phố ưu tiên trong kích cầu đầu tư.

Nói về những giải pháp công nghệ cho doanh nghiệp Việt áp dụng để đáp ứng các tiêu chuẩn xanh khắt khe từ các thị trường khó tính đặt ra như Mỹ và EU, Nhật Bản, bà Lý Kim Chi cho biết, doanh nghiệp có thể sử dụng năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời, nhằm giảm sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch. Hoặc công nghệ tuần hoàn như tái chế và tái sử dụng nguyên liệu đang trở thành xu hướng tất yếu, giúp doanh nghiệp giảm thiểu rác thải và tận dụng tối đa tài nguyên.

“Một công nghệ tiềm năng khác là in 3D, cho phép sản xuất theo yêu cầu với lượng vật liệu lãng phí tối thiểu. Đặc biệt, nếu điều kiện cho phép, doanh nghiệp nên cân nhắc áp dụng Internet vạn vật (IoT) và trí tuệ nhân tạo (AI) để tối ưu hóa quy trình sản xuất” - bà Chi chia sẻ.

Hoàn thiện khung pháp lý về phát triển bền vững

Ngoài việc doanh nghiệp tự thay đổi để thích ứng thì điều đầu tiên và quan trọng nhất là hoàn thiện khung pháp lý về phát triển bền vững. Hiện nay, ngay cả khái niệm "xanh" vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng, dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất trong việc đánh giá và triển khai chính sách.

Theo nhận định của giới chuyên gia, khi chưa có tiêu chí cụ thể, các ngân hàng sẽ ngần ngại cấp vốn cho các dự án xanh, và ngay cả những doanh nghiệp đã áp dụng mô hình sản xuất bền vững cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn tài chính ưu đãi. Do đó, các cơ quan, bộ, ngành cần nghiên cứu và áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế để xác định rõ ràng điều kiện để một doanh nghiệp xanh cần phải đáp ứng.

Nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hợp quốc, Ngân hàng Thế giới và các nền kinh tế phát triển như EU, Mỹ, Nhật Bản đã có những bộ tiêu chí xanh riêng. Việt Nam có thể xem xét phân loại cấp độ "xanh" dựa trên các tiêu chuẩn này.

Doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí xanh của Liên Hợp quốc hoặc EU, Mỹ, Nhật Bản, có thể được xếp vào nhóm doanh nghiệp xanh cấp độ 1 - cấp độ cao nhất. Tương tự, các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn của các tổ chức hoặc quốc gia khác sẽ được phân vào các cấp độ từ 2 đến 5. Mỗi cấp độ này nên đi kèm với các ưu đãi phù hợp, chẳng hạn như lãi suất vay ưu đãi, miễn giảm thuế, hoặc hỗ trợ tài chính cho việc chuyển đổi công nghệ. Điều này không chỉ tạo động lực cho doanh nghiệp hướng tới sản xuất bền vững mà còn giúp nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm lương thực, thực phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Song song với việc hoàn thiện khung pháp lý, Nhà nước cần nắm bắt nhu cầu chuyển đổi xanh của doanh nghiệp trong các ngành trọng yếu, trong đó có lương thực, thực phẩm. Việc triển khai tuyên truyền, tổ chức đào tạo và hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng chiến lược bền vững là rất cần thiết. Để hỗ trợ tài chính, Chính phủ có thể thành lập quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh hoặc triển khai các chương trình vay ưu đãi dành riêng cho doanh nghiệp sản xuất theo mô hình bền vững.

Nguyễn Lạc

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/xanh-hoa-nganh-luong-thuc-thuc-pham-de-thuc-day-xuat-khau-172760-172760.html