Xây bản sắc văn hóa đô thị TP HCM: Giữ đạo lý 'Uống nước nhớ nguồn'
Bài học về Uống nước nhớ nguồn không chỉ được giáo dục, bồi dưỡng từ nhà trường mà còn sinh động từ ngay trong dòng chảy của đời sống
"Gánh lấy ca dao/ Bế bồng tục ngữ/ Vác đình làng văn hiến 4.000 năm/ Phù sa, bùn đen còn bám riết gót chân/ Cư dân Ngũ Quảng/ Xuôi về phương Nam". Vì nhiều lý do, đi về phương Nam là một trong những yếu tố tồn tại của người Việt. Có thể nói, lưu dân từ Sài Gòn đến đồng bằng sông Cửu Long hầu hết là dân Ngũ Quảng: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên - Huế), Quảng Nam và Quảng Ngãi, nói rộng ra là đến từ văn minh sông Hồng. Chính họ là những con người mở ra vùng đất trù phú phương Nam ngày nay, trong đó có Sài Gòn - TP HCM.
Phải thể hiện lòng tri ân
Khi nhìn về vùng đất này, thế hệ sau có thể tìm thấy trong nhiều tài liệu ghi chép công phu và đáng tin cậy, có thể kể đến "Gia Định thành thông chí" của nhà sử học uyên bác Trịnh Hoài Đức. Những trang ghi chép về công cuộc mưu sinh của lưu dân ngày ấy cực kỳ gian nan, không chỉ đổ mồ hôi sôi nước mắt vì miếng cơm manh áo, khai khẩn đất hoang, cải tạo thiên nhiên mà còn lấy xương máu của mình để giữ lấy vùng đất mới. Nhìn lại hành trình dài dằng dặc theo năm tháng ấy, ta đồng thuận với cách nói khái quát của Trịnh Hoài Đức: "Núi là xương của đất, nước là máu của đất, ấp ủ lưu thông để làm ra đất đai một phương. Những anh hùng hào kiệt, trung thần liệt nữ cũng từ đó mà sinh ra kho báu tàng trữ của cải, không vật gì là không đủ". Vì lẽ đó, những gì tiền nhân đã tạo dựng nên đã để lại cho mai sau ở vùng đất Sài Gòn - TP HCM, thế hệ sau không chỉ không được lãng quên mà còn phải thể hiện lòng tri ân.
Sự thể hiện của lòng biết ơn, "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây",… chính là phẩm chất làm nên cốt lõi của văn hóa người Việt. Xét cho cùng, đây cũng chính là một trong những yếu tố hun đúc nên tấm lòng yêu lấy vùng đất mình đã an cư lập nghiệp và xây dựng ngày một tốt đẹp hơn. Tình yêu ấy hòa nhập vào dòng chảy chung để làm nên tình yêu non sông gấm vóc thống nhất từ ải Nam Quan vào đến tận mũi Cà Mau. Tình yêu ấy được thể hiện qua nhiều cách làm tích cực khác nhau, trong đó có thể nhìn nhận từ ẩm thực đến các di tích lịch sử, văn hóa. Nói như thế, bởi làm nên sự khác biệt văn hóa của mỗi địa phương, không nói đâu xa, còn chính là từ "đất lề quê thói", nếp ăn nếp ở của cư dân nơi đó.
Lưu dấu người xưa
Với người Việt nói chung, trong đó có con người Sài Gòn - TP HCM thì tính cách thiện lương được thể hiện qua lòng yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Vậy, ta có thể nhìn thấy từ đâu? Một câu hỏi, có thể chúng ta dễ dàng trả lời nhưng với bè bạn năm châu đến đây họ tìm câu trả lời từ đâu? Có phải trước hết từ các bảo tàng? Đúng vậy. Chính các địa chỉ này là nơi giúp họ có thể khái quát được lịch sử, nét đặc trưng, sự hình thành của cư dân, của vùng đất đó một cách linh hoạt nhất. Hiện nay, ta đã đáp ứng được điều này chưa? Tôi không dám lạm bàn, chỉ nghĩ rằng, đâu là bảo tàng lưu giữ lại dấu ấn khai hoang của tiền nhân trên bước đường lập nghiệp ở Sài Gòn - TP HCM?
Hỏi như thế bởi sử sách chép lại rằng thuở xa xưa đó, không chỉ đối mặt với phong thổ chướng khí, rừng thiêng nước độc, người xưa còn phải đương đầu với thú dữ hùm, beo, cọp, sấu… nữa. Nó được tái hiện thế nào? Đây chỉ là một trong rất nhiều hiện vật cần có trong không gian bảo tàng văn hóa nhằm tái hiện đời sống của lớp người khai cơ, khai canh tại đây.
Với nhiều bảo tàng hiện đại, khi vào tham quan, ta không chỉ tận mắt nhìn hiện vật, nghe thuyết minh mà còn là phòng chiếu bóng với những thước phim tài liệu sống động… Với sinh hoạt mua bán, trên bến dưới thuyền của cảng biển Sài Gòn, Bến Nghé, Chợ Lớn… cũng cần được thể hiện lại một cách bài bản. Tất nhiên, không chỉ dừng lại đó mà còn là những dấu vết thăng trầm của biến động lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội về sau nữa. Thí dụ, về văn hóa, đâu là nơi để du khách có thể hình dung ra từ nói thơ Sáu Trọng, thầy Thông Chánh, Hai Nhỏ… đến đờn ca tài tử rồi hình thành nghệ thuật cải lương? Loại hình này ngày càng đơm hoa kết trái như hôm nay, chính là nhờ từ hệ thống rạp hát, gánh hát đã hội tụ nơi này. Sự đặc sắc này, không một địa phương nào có thể sánh kịp. Vậy bảo tàng nào là nơi khắc họa được hành trình độc đáo này?
Với du khách từ xa đến bất kỳ vùng đất nào, ngoài việc tìm hiểu lai lịch của một vùng đất, còn là dịp họ thưởng thức đặc sản. Câu hỏi đặt ra, tưởng dễ nhưng chắc gì đã tìm được câu trả lời đồng thuận, thí dụ, đâu là món ăn tiêu biểu nhất của con người Sài Gòn - TP HCM? Hay chỉ là nơi tổng hợp món ăn của địa phương khác được chế biến theo gu ẩm thực riêng? Theo tôi, rất cần có nhiều nhà hàng bày bán thức ăn thức uống của thời khẩn hoang, vì đây vẫn là nơi tiêu biểu nhất của cư dân phương Nam nói chung. Ăn ở đây không chỉ là thưởng thức mà còn là dịp để chúng ta cùng tìm về nếp ăn của một thời "dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um" của một thời để có được ngày hôm nay. Biết không chỉ để mà biết. Biết còn là lúc hồi tưởng, tưởng nhớ về tiền nhân đã gian nan dày công tìm mọi cách để tồn tại trong ý thức "ăn, ở, mặc" đặng gìn giữ đất đai.
Và một khi nói đến Sài Gòn - TP HCM là nói đến sự hội tụ của "đất lành chim đậu". Cùng với cư dân bản địa, những tinh hoa từ nơi khác tìm đến đã góp phần làm nên diện mạo con người của vùng đất này. Các địa phương khác khó có thể sánh. Dấu vết của họ nay đâu?
Thiết nghĩ, khi ta chú tâm thực hiện các điều này, không chỉ phục vụ du khách mà còn giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Bài học về "Uống nước nhớ nguồn" không chỉ được giáo dục, bồi dưỡng từ sách giáo khoa, nhà trường mà còn sinh động từ ngay trong dòng chảy của đời sống… Bài học này dễ nhớ lại khó quên.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 16-11
Kỳ tới: Giáo dục nhân cách bằng nghệ thuật