Xây dựng nhãn hiệu phát thải thấp cho sản phẩm trồng trọt

Đây là mục tiêu được nêu ra tại Đề án 'Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025 2035, tầm nhìn đến 2050' vừa được Quyền Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng ký ban hành tại quyết định số 4024/QĐ-BNNMT.

Đề án được thực hiện trên phạm vi toàn quốc trong giai đoạn 2025 - 2035 với các cây trồng thuộc lĩnh vực trồng trọt, trong đó tập trung vào một số cây chủ lực, có tiềm năng giảm phát thải cao như lúa, sắn, mía, cà phê, chuối…

Theo đó, mục tiêu đến năm 2035, lĩnh vực trồng trọt sẽ góp phần giảm ít nhất 15% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với năm cơ sở 2020; xây dựng và phát triển nhãn hiệu “phát thải thấp” cho các sản phẩm của ngành hàng trồng trọt.

Mỗi tỉnh tổ chức triển khai ít nhất 1 - 2 mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải có khả năng nhân rộng; thí điểm ít nhất 15 mô hình canh tác có khả năng phát triển tín chỉ carbon đáp ứng được yêu cầu của các tổ chức quốc tế.

Đồng thời, ngành trồng trọt xây dựng và và ban hành ít nhất 5 gói kỹ thuật sản xuất giảm phát thải áp dụng cho các cây trồng chủ lực; hình thành cơ sở dữ liệu phát thải trong trồng trọt kết nối đồng bộ với hệ thống đăng ký quốc gia.

Đề án được thực hiện trên phạm vi toàn quốc trong giai đoạn 2025 - 2035 với các cây trồng thuộc lĩnh vực trồng trọt, trong đó tập trung vào một số cây chủ lực, có tiềm năng giảm phát thải cao như lúa, sắn, mía, cà phê, chuối... Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN

Đề án được thực hiện trên phạm vi toàn quốc trong giai đoạn 2025 - 2035 với các cây trồng thuộc lĩnh vực trồng trọt, trong đó tập trung vào một số cây chủ lực, có tiềm năng giảm phát thải cao như lúa, sắn, mía, cà phê, chuối... Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN

Tầm nhìn đến năm 2050, ngành trồng trọt Việt Nam sẽ phát triển theo hướng phát thải thấp, sinh thái và hiện đại, trở thành trụ cột quan trọng trong quá trình chuyển đổi xanh của nền nông nghiệp quốc gia. Hoạt động sản xuất trồng trọt được tổ chức theo chuỗi giá trị tuần hoàn, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số và nông nghiệp thông minh, đảm bảo sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, nước và vật tư đầu vào, đồng thời kiểm soát, hấp thụ và bù đắp phát thải một cách thực chất.

Toàn ngành phấn đấu 100% diện tích cây trồng chủ lực áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác bền vững; hình thành cơ sở dữ liệu số hóa về phát thải trong trồng trọt, kết nối đồng bộ với hệ thống giám sát quốc gia; xây dựng và phổ cập nhãn hiệu “phát thải thấp” cho các ngành hàng nông sản chủ lực.

Việt Nam sẽ trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về phát triển nông sản có trách nhiệm với khí hậu, tạo dựng lợi thế cạnh tranh xanh trên thị trường quốc tế và đóng góp tích cực vào mục tiêu phát thải ròng bằng “0” theo cam kết tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp quốc về biến đổi khí hậu (COP26).

Hình thành và phát triển hệ thống thị trường tiêu thụ nông sản phát thải thấp

Đề án nêu rõ 6 nhiệm vụ chính cần thực hiện. Trong đó, ngành trồng trọt tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng linh hoạt phù hợp với đặc điểm vùng sinh thái và trình độ canh tác của vùng.

Ngành cũng phát triển và áp dụng các gói kỹ thuật trong sản xuất trồng trọt giảm phát thải như biên soạn, phổ biến hướng dẫn kỹ thuật canh tác giảm phát thải theo từng nhóm cây trồng (lúa, sắn, cà phê và mía), tích hợp cùng hệ thống khuyến nông...

Đặc biệt, ngành sẽ triển khai mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải quy mô vùng và chuỗi giá trị. Trong đó, ngành lựa chọn xây dựng các mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải tại những vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ưu tiên theo một số loại cây trồng chủ lực trên các vùng sinh thái của cả nước và phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Để đạt được mục tiêu, ngành trồng trọt cũng cần tập trung kết nối thị trường cho các sản phẩm phát thải thấp. Cụ thể, các đơn vị tổ chức chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản phát thải thấp, hình thành vùng nguyên liệu đồng bộ gắn với các doanh nghiệp thu mua, phân phối, xuất khẩu.

Ngành xây dựng hệ thống chứng nhận sản phẩm phát thải thấp, hỗ trợ truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu phát thải thấp cho nông sản, kết nối với thị trường xuất khẩu yêu cầu cao (EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ…). Các đơn vị thực hiện thí điểm triển khai cấp nhãn hiệu đối với một số ngành hàng chủ lực như lúa gạo, rau quả, cà phê, hồ tiêu…, làm cơ sở mở rộng áp dụng toàn quốc.

Ngành trồng trọt hình thành và phát triển hệ thống thị trường tiêu thụ nông sản phát thải thấp; xây dựng và quản lý nhãn hiệu chứng nhận “phát thải thấp” nhằm nâng cao giá trị, mở rộng thị trường và khẳng định vị thế nông sản Việt Nam gắn với phát triển bền vững và trách nhiệm môi trường.

Đến năm 2035, Việt Nam xây dựng và phát triển nhãn hiệu “phát thải thấp” cho các sản phẩm của ngành hàng trồng trọt. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN

Đến năm 2035, Việt Nam xây dựng và phát triển nhãn hiệu “phát thải thấp” cho các sản phẩm của ngành hàng trồng trọt. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN

Doanh nghiệp, hợp tác xã được tiếp cận thị trường xuất khẩu thông qua hoạt động xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa thị trường, quảng bá nông sản phát thải thấp tại các hội chợ quốc tế. Các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình OCOP và các chính sách khuyến nông tích hợp hỗ trợ phát triển sản phẩm phát thải thấp.

Ngoài ra, Đề án cũng chỉ ra một số nhiệm vụ chính cần triển khai như thiết lập và vận hành hệ thống MRV (đo lường – báo cáo – thẩm định) và cơ sở dữ liệu phát thải khí nhà kính; nâng cao năng lực và chuyển đổi nhận thức thông qua các chương trình tập huấn, đào tạo, hợp tác với các tổ chức quốc tế (FAO, WB, GIZ...).

Các nhóm giải pháp cụ thể

Đề án đưa ra 7 nhóm giải pháp để hiện thực hóa mục tiêu, bao gồm tăng cường năng lực quản lý Nhà nước về giảm phát thải trong trồng trọt; đào tạo, truyền thông và nâng cao nhận thực; khoa học, công nghệ và chuyển giao kỹ thuật; tài chính và thị trường; tổ chức sản xuất; xây dựng hệ thống dữ liệu; hợp tác quốc tế.

Đối với giải pháp về tổ chức sản xuất, chuỗi giá trị, Đề án nêu rõ, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào vùng nguyên liệu, áp dụng mô hình đồng quản lý phát thải giữa nông dân và đơn vị thu mua; thực hiện truy xuất nguồn gốc carbon, hỗ trợ xây dựng thương hiệu nông sản giảm phát thải.

Về tài chính và thị trường, ngân sách Nhà nước, vốn sự nghiệp khoa học, khuyến nông, chương trình mục tiêu quốc gia giữ vai trò “dẫn dắt”, đầu tư vào các cấu phần có tính nền tảng như chính sách, cơ sở dữ liệu, đào tạo, mô hình thí điểm, khuyến nông, giám sát địa phương…

Vốn tư nhân, vốn xã hội hóa trong tổ chức sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ kỹ thuật và thu mua nông sản tập trung vào các hoạt động liên kết chuỗi giá trị, đầu tư thiết bị canh tác, mở rộng diện tích áp dụng các quy trình canh tác giảm phát thải, vận hành hệ thống MRV, hệ thống truy xuất nguồn gốc carbon, ứng dụng công nghệ số, cơ sở chế biến, bảo quản nông sản giảm phát thải.

Nguồn tài trợ quốc tế, vốn ODA, vốn khí hậu và các chương trình giảm phát thải toàn cầu sẽ ưu tiên cho các hợp phần về MRV, chuyển giao công nghệ, thử nghiệm tín chỉ carbon, đào tạo và nâng cao năng lực…

Đề án cũng tập trung giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản giảm phát thải, ưu tiên các thị trường có yêu cầu cao về môi trường như EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ.

Về hợp tác quốc tế, các bên tăng cường tham gia diễn đàn, sáng kiến khu vực và toàn cầu liên quan đến nông nghiệp giảm phát thải và thị trường carbon; học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, tiêu chuẩn kỹ thuật, mô hình hợp tác công - tư trong phát triển nông nghiệp carbon thấp, đồng thời vận dụng linh hoạt theo điều kiện Việt Nam.

Lê Hồng Nhung

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/xay-dung-nhan-hieu-phat-thai-thap-cho-san-pham-trong-trot-46826.html