Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân cách mạng được Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Quan điểm, đường lối về xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại luôn được Đảng ta bổ sung và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng.
Sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tháng 9-1954, Bộ Chính trị ban hành nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Đối với nhiệm vụ xây dựng Quân đội, nghị quyết xác định “phải xây dựng Quân đội nhân dân thành một quân đội cách mạng, chính quy, tương đối hiện đại hóa”(1). Tháng 3-1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tích cực phấn đấu để tiếp tục thực hiện và hoàn thành thắng lợi kế hoạch dài hạn xây dựng Quân đội nhân dân (QĐND), làm cho Quân đội ta trở thành một bộ đội lục quân cách mạng, chính quy và tương đối hiện đại, đồng thời đạt những cơ sở đầu tiên cho các quân chủng và binh chủng kỹ thuật”(2).
Sau khi miền Nam được giải phóng, mặc dù đất nước còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, song xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại vẫn được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược. Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta xác định chủ trương “xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ, với cơ cấu tổ chức và quân số hợp lý, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu”(3). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định “xây dựng các LLVT nhân dân với số quân thường trực thích hợp theo hướng cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ, với lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao”(4).
Căn cứ vào điều kiện, tình hình đất nước, trong những năm đầu của thế kỷ 21, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã chủ động triển khai nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật về xây dựng Quân đội. Đại hội XII của Đảng đã xác định rõ chủ trương “xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng LLVT nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”(5). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định “xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”(6). Đây là chủ trương nhất quán, đúng đắn, thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, là cơ sở để Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, công cụ bạo lực sắc bén để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ được giao.
Với quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng, trong suốt chặng đường 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, QĐND Việt Nam luôn giữ vững lập trường giai cấp công nhân, bản lĩnh chính trị, sức chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm chiến đấu, hy sinh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, nhất là cơ quan tham mưu chiến lược thường xuyên nghiên cứu, nắm, đánh giá, dự báo đúng tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước xử lý linh hoạt, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời, chỉ đạo tổng kết thực tiễn, xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện đồng bộ Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia... và nhiều nghị quyết, kết luận, văn bản pháp luật về quân sự, quốc phòng, đánh dấu bước phát triển mới về tư duy lý luận, hoàn thiện đường lối, chính sách quốc phòng, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, khu vực phòng thủ các cấp được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, củng cố ngày càng vững chắc. Thế bố trí chiến lược được quy hoạch, điều chỉnh phù hợp với Chiến lược bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế-xã hội. Hệ thống công trình phòng thủ, căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương từng bước được đầu tư xây dựng. Các khu kinh tế-quốc phòng ở địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn dọc biên giới đất liền, trên biển và hải đảo tiếp tục phát huy hiệu quả. Cán bộ, chiến sĩ thực hiện tốt vai trò xung kích, nòng cốt, kịp thời có mặt ở những nơi xung yếu, hiểm nguy, giúp nhân dân phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... góp phần hoàn thành xuất sắc chức năng “đội quân công tác”, nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình và nhiệm vụ tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền, xung đột dân tộc, sắc tộc... diễn ra với nhiều hình thức, quy mô phức tạp, quyết liệt. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau và sẵn sàng can dự, chi phối vào nội bộ nước khác. Các yếu tố an ninh truyền thống, phi truyền thống, nhất là an ninh, an toàn không gian mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh... tiếp tục diễn biến theo chiều hướng phức tạp hơn. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo diễn biến phức tạp. Đối với nước ta, sau gần 40 năm đổi mới, thế và lực ngày càng được tăng cường, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức đan xen. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội... với những âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng công khai, trực diện hơn.
Quán triệt sâu sắc phương hướng xây dựng QĐND Việt Nam theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Một là, kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, giữ vững bản chất cách mạng, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
Quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(7), Đảng ta luôn đặt lên hàng đầu công tác xây dựng Quân đội về chính trị, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; bảo đảm Quân đội luôn là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Ngày nay, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị càng phải được quan tâm hơn nữa để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp, hiệu quả.
Trước hết, phải tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội luôn được giữ vững và tăng cường. Cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ phải thường xuyên quan tâm chăm lo công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ, xác định động cơ, ý chí, quyết tâm cao trong thực hiện nhiệm vụ; tổ chức tốt các phong trào thi đua, các cuộc vận động và xây dựng môi trường văn hóa quân sự thời kỳ mới tiến bộ, lành mạnh, tạo sự đoàn kết, thống nhất, đồng thuận trong toàn quân. Cùng với đó, phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, chiến dịch vững mạnh, có số lượng, cơ cấu hợp lý, chất lượng ngày càng cao, đóng vai trò nòng cốt, gương mẫu đi đầu trong các mặt hoạt động của Quân đội. Thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, tập trung vào kiểm tra những dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... góp phần giữ nghiêm kỷ luật Đảng. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ động đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại của địch, hoạt động xâm phạm an ninh quân sự, an ninh quốc gia và các loại tội phạm. Công tác dân vận phải được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, với nhiều mô hình, cách làm hay, sáng tạo, thiết thực, góp phần làm cho phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ luôn tỏa sáng, mối quan hệ máu thịt quân-dân ngày càng thêm gắn bó.
Hai là, chăm lo xây dựng LLVT ba thứ quân, nòng cốt là QĐND tinh, gọn, mạnh, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định đến năm 2025 cơ bản xây dựng QĐND “tinh, gọn, mạnh”, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao. Để thực hiện mục tiêu đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, kết hợp chặt chẽ công tác tổ chức với công tác tư tưởng, công tác cán bộ và công tác chính sách. Trước mắt, tập trung hoàn thành các mục tiêu theo Nghị quyết số 05 ngày 17-1-2022 của Bộ Chính trị khóa XIII, Nghị quyết số 230 ngày 2-4-2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo; Kế hoạch số 1228 ngày 25-4-2022 của Bộ Quốc phòng về tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo.
Tiếp tục điều chỉnh một số cơ quan, đơn vị theo kế hoạch; quản lý chặt chẽ đầu vào, kiên quyết giải quyết quân số dôi dư theo biểu tổ chức, biên chế đã ban hành, bảo đảm không tăng quân số trong toàn quân. Giảm quân số các cơ quan, đơn vị bảo đảm, phục vụ, ưu tiên bảo đảm quân số đơn vị sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) ở địa bàn trọng yếu, biên giới, hải đảo, bảo đảm cân đối giữa tổng quân số với khả năng bảo đảm của đất nước; bảo đảm Quân đội đủ khả năng hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong thời bình và khi xảy ra chiến tranh. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp; tổ chức, biên chế đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng gắn với địa bàn và nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, tổ chức. Quá trình sắp xếp, điều chỉnh tổ chức phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, chỉ huy các cấp; kiên trì thực hiện đúng kế hoạch, lộ trình, bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, sát với thực tế, giữ vững sự ổn định, không để ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị. Đồng thời, thực hiện tốt “3 đột phá” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI.
Ba là, nâng cao chất lượng huấn luyện, SSCĐ, diễn tập, giáo dục và đào tạo (GD-ĐT), đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống
Toàn quân tiếp tục đột phá đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập, GD-ĐT theo Nghị quyết số 1659 ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023-2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 1657 ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình mới. Quá trình thực hiện phải bám sát chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, thực tiễn của đất nước và tình hình đơn vị; kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện, đào tạo với nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự, nhất là nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp chỉ đạo, điều hành huấn luyện, diễn tập; vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quan điểm, nguyên tắc, mối kết hợp trong huấn luyện. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành huấn luyện theo hướng “tập trung, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả, không chồng chéo”, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu, huấn luyện đêm, huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị, nhất là vũ khí, trang bị mới, hiện đại; kết hợp huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị và rèn luyện thể lực của bộ đội, nâng cao bản lĩnh, quyết tâm và khả năng cơ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh; huấn luyện kết hợp với phòng, chống dịch bệnh, phòng, chống thiên tai, thảm họa môi trường; thực hiện nghiêm các quy định về bảo đảm an toàn trong huấn luyện, diễn tập.
Các nhà trường Quân đội cần có đột phá trong GD-ĐT nguồn nhân lực quân sự, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; đồng thời, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành huấn luyện, đào tạo với phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng SSCĐ của đơn vị”, tạo tiền đề vững chắc để nâng cao chất lượng GD-ĐT, nghiên cứu khoa học-công nghệ quân sự. Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý và chất lượng ngày càng cao; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học-công nghệ, không ngừng nâng cao trình độ học vấn gắn với chức vụ, khả năng tư duy, tay nghề sư phạm và kinh nghiệm thực tiễn. Thực hiện tốt việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học, chú trọng rèn luyện bản lĩnh, phương pháp, tác phong chỉ huy, quản lý; đồng thời, có chính sách thu hút nhân tài về các học viện, nhà trường công tác. Tích cực đổi mới quy trình, chương trình, nội dung đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, phù hợp với từng đối tượng, cấp học, sát thực tế huấn luyện, SSCĐ và yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới. Tập trung đầu tư xây dựng một số học viện, nhà trường theo mô hình “nhà trường thông minh”, tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nâng cao chất lượng công tác bảo đảm huấn luyện đáp ứng yêu cầu “khoa học, hiệu quả, kịp thời”.
Cùng với đó, toàn quân tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn kiện, kế hoạch tác chiến, hệ thống công trình phòng thủ, thiết bị chiến trường. Thường xuyên nắm chắc tình hình, đối tượng tác chiến và yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình để điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh các văn kiện cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn; chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy phải được duy trì nghiêm túc. Tích cực tổ chức luyện tập theo các phương án đã xác định, để bộ đội thuần thục trên các địa hình, tình huống chiến đấu, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Bốn là, tăng cường xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, tạo chuyển biến toàn diện, vững chắc về chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước
Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tiếp tục quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu và các văn bản liên quan về xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, cùng với những bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn chỉ huy, quản lý bộ đội để có chủ trương, giải pháp phù hợp. Nội dung xây dựng chính quy phải toàn diện, song có trọng tâm, trọng điểm, đột phá vào những khâu yếu, mặt yếu; nâng cao trình độ chính quy trong huấn luyện, SSCĐ; quản lý chặt chẽ con người và vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện quân sự. Kết hợp chặt chẽ xây dựng chính quy với chấp hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật Quân đội, phấn đấu giảm tỷ lệ vi phạm kỷ luật thông thường hằng năm; hạn chế đến mức thấp nhất các vụ vi phạm nghiêm trọng, mất an toàn trong huấn luyện; gắn xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu” với xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cần đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bảo đảm cho Quân đội luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có động cơ, ý chí quyết tâm chiến đấu, tính tự giác trong thực hiện điều lệnh, điều lệ, chỉ thị, quy định; gắn giáo dục chính trị, đạo đức và pháp luật với các biện pháp hành chính và xử lý liên đới trách nhiệm của cán bộ. Cùng với đó, chủ động đấu tranh, phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch; phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội; góp phần bảo vệ và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an và nhân dân của các thế lực thù địch.
Thường xuyên tự phê bình và phê bình, kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả. Tiếp tục thực hiện Quy định số 08 ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 144 ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành công việc thường xuyên, hằng ngày của mỗi tổ chức, cá nhân, đơn vị với nhiều nội dung phong phú và thiết thực, gắn với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, chủ động đấu tranh phòng, chống các tác động tiêu cực và văn hóa xấu độc.
Năm là, thực hiện tốt công tác hậu cần, kỹ thuật, phát triển công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại
Toàn quân tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 1658 ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương “Về công tác hậu cần Quân đội đến năm 2030 và những năm tiếp theo”, Nghị quyết số 1656 ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương “Về lãnh đạo công tác kỹ thuật đến năm 2030 và những năm tiếp theo”, Nghị quyết số 08 ngày 26-1-2022 “Về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”... Phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác hiệu quả các nguồn lực; hoàn thiện cơ chế, phương thức bảo đảm vật chất hậu cần, tăng cường tiềm lực, thế trận hậu cần, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng công tác, bảo đảm tốt nhất cho các lực lượng hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Thực hiện có hiệu quả chuyển đổi số trong công tác hậu cần, từng bước hiện đại hóa trang bị, phương tiện và cơ sở, vật chất hậu cần, xây dựng lực lượng hậu cần vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kỹ thuật, bảo đảm kịp thời, đầy đủ trang bị kỹ thuật có chất lượng tốt, đồng bộ cho Quân đội, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện về nhận thức, tổ chức, hệ thống cơ sở kỹ thuật và cơ chế quản lý, chỉ đạo công tác kỹ thuật. Hoàn thiện quy hoạch hệ thống kho tàng kỹ thuật. Xây dựng ngành kỹ thuật vững mạnh, tinh gọn, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả, góp phần xây dựng Quân đội hiện đại. Cùng với đó, xây dựng nền công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại. Xây dựng và luật hóa các cơ chế, chính sách đặc thù đầu tư phát triển công nghiệp quốc phòng; thu hút, đào tạo, giữ gìn, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao; khuyến khích, phát huy, trọng dụng nhân tài. Tích cực nghiên cứu, sản xuất vật tư kỹ thuật, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị; làm chủ được thiết kế, công nghệ nền, công nghệ lõi, tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp quốc phòng.
Tự hào với truyền thống hào hùng, sự nghiệp vẻ vang của 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành của QĐND Việt Nam, toàn quân nêu cao ý chí quyết tâm, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nội dung, biện pháp thiết thực góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của QĐND Việt Nam-lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Thượng tướng, TS LÊ HUY VỊNH, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
----------------------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, NXB Chính trị Quốc gia, H, 2001, trang 306
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18, NXB Chính trị Quốc gia, H, 2002, trang 241
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, NXB Chính trị Quốc gia, H, 2007, trang 111-112
(4) Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Sđd, trang 143
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, trang 78-79
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, H, 2021, trang 48-49
(7) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, H, 2001, trang 217