Xuất hiện những tín hiệu hướng tới việc bỏ room tín dụng trong tương lai
Ngày 11/3, tại bàn tròn chính sách về chủ đề 'Room tín dụng', nhiều ý kiến cho thấy nhà điều hành đang có những động thái mới về cách thức vận hành room tín dụng, giao hạn mức tín dụng cho các ngân hàng và hướng tới việc bỏ room tín dụng trong tương lai.
Nhìn lại thời điểm khởi đầu áp dụng room tín dụng, ông Lê Hoài Ân - Chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng, người sáng lập Công ty cổ phần Giải pháp tài chính tích hợp (IFSS) nhắc đến cột mốc năm 2011, Việt Nam bắt đầu ban đầu áp dụng trần tăng trưởng tín dụng (room tín dụng). Giai đoạn trước đó, tăng trưởng tín dụng rất cao, trung bình có thể lên đến 25 - 35%/năm.
Chọn thời điểm và có lộ trình cụ thể
Theo ông Lê Hoài Ân, giai đoạn trước năm 2011, tăng trưởng tín dụng cao, tiền bơm ra nền kinh tế nhiều nhưng lại khó hấp thụ, dẫn đến nhiều hệ lụy, trong đó có nguy cơ tăng lạm phát.
Đánh giá về việc sử dụng room tín dụng vừa qua, ông Ân cho rằng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) làm khá tốt trong thập niên vừa qua, việc kiểm soát room tín dụng vừa đóng vai trò đảm bảo tăng trưởng GDP, vừa quản lý rủi ro dòng vốn. Tuy nhiên, bao giờ có “trần” thì cũng có thể tạo sự “cồng kềnh”.
Trong giai đoạn đầu, ngành ngân hàng cũng phải loay hoay để thích ứng nhưng càng những năm về sau càng minh bạch và có những tiêu chí rõ ràng hơn thì các ngân hàng càng nắm rõ hơn về việc với năng lực của mình thì được cấp room tín dụng bao nhiêu là phù hợp.

Nguồn: Ông Lê Hoài Ân tổng hợp.
"Thay vì “bỏ hay không bỏ room tín dụng”, cơ quan quản lý có thể nghĩ nhiều hơn đến câu chuyện khi nào bỏ room tín dụng là phù hợp nhất và tiến từng bước tới lộ trình bỏ room tín dụng, tự do hóa tăng trưởng tín dụng" - ông Ân cho biết.
Đến năm 2018, việc cấp room tín dụng dựa trên việc đánh giá năng lực tài chính các ngân hàng theo Thông tư 52/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018. Tới năm 2024, lần đầu tiên NHNN giao room tín dụng ngay từ đầu năm và năm 2025 này cũng vậy.
Cũng theo ông Lê Hoài Ân, hiện trên thế giới gần như không có quốc gia nào hạn chế về room tín dụng và ngay cả các quốc gia trước có áp dụng thì nay hầu như đã bỏ room. Về đặc thù riêng có của Việt Nam khiến room tín dụng vẫn được chưa được gỡ bỏ, ông Ân cho biết, Việt Nam là một trong những quốc gia tăng trưởng cao trên thế giới và cần tín dụng để kích thích nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, dòng tiền sẽ chảy về những nơi mang lại lợi nhuận trong ngắn hạn và xảy ra tình trạng đầu cơ, vì vậy, vai trò của Nhà nước là điều tiết để dòng tiền đi vào sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong giai đoạn đầu để tạo một nền công nghiệp cho quốc gia.
Có cơ chế kiểm soát rủi ro hiệu quả hơn
Từ góc độ ngân hàng, ông Trần Hoài Phương - Giám đốc Khối Khách hàng doanh nghiệp, thành viên Ban điều hành Ngân hàng HDBank cho rằng, trong bối cảnh nền kinh tế cần phục hồi và phải tăng trưởng tốt..., rõ ràng cần phải cần một nguồn lực lớn hơn.
Ngân hàng chủ động nâng chất lượng để tăng nâng hạng tín nhiệm
"Bên cạnh room tín dụng, bản thân các ngân hàng phải quan tâm tới chất lượng tài chính để đạt được điểm tín nhiệm tốt, không chỉ đối với NHNN mà đối với các định chế tài chính nước ngoài, bởi định chế tài chính nước ngoài cũng cấp tín dụng cho các ngân hàng trong nước" - ông Phương nhấn mạnh.
Các ý kiến tại sự kiện cũng đồng tình với việc bỏ room tín dụng sẽ đem lại tác động, tâm lý tích cực, doanh nghiệp, người tiêu dùng cảm thấy việc vay vốn trở nên dễ dàng hơn để tích lũy hay đầu tư. Hơn nữa, hiện có các cơ chế khác để quản trị ngân hàng hiệu quả.
Theo đó, hiện các ngân hàng Việt Nam đang dành sự quan tâm vào chỉ số tín nhiệm từ các tổ chức quốc tế và sử dụng vốn một cách hợp lý đối với room tín dụng được giao. Để được nâng hạng tín nhiệm, ngân hàng cần đạt được các tiêu chí về tài chính, nhà quản lý có thể nhìn vào và dễ dàng đánh giá chất lượng hoạt động.
Chính ngân hàng muốn giữ chỉ số tốt, thu hút nhà đầu tư, tạo niềm tin với cổ đông, nhà đầu tư cũng như tạo thêm sự yêu mến từ khách hàng, chính ngân hàng chủ động cải thiện các chỉ số tài chính.
Đến thời điểm đó, việc quản lý chất lượng ngân hàng thông qua room tín dụng chỉ là một yếu tố để kiểm soát rủi ro và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính.

Tín hiệu bắt đầu lộ trình từng bước gỡ bỏ room tín dụng. Ảnh minh họa.
Sở dĩ có thể đặt vấn đề bỏ room tín dụng thời điểm này, theo TS. Nguyễn Tú Anh - nguyên Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương (trước đây), đến nay, khi triển khai Thông tư 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hầu hết các ngân hàng đều áp dụng chuẩn chuẩn mực quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Nhờ đó, các ngân hàng quản trị tốt hơn, NHNN sẽ kiểm soát tốt hơn việc tăng trưởng tín dụng.
"Việc NHNN kiểm soát thông qua các chỉ số an toàn hiệu quả hơn là một biện pháp hành chính giới hạn room tín dụng, khiến hệ thống hoạt động một cách thị trường hơn và hiệu quả hơn" - ông Tú Anh nhấn mạnh.
Nhiều ý kiến cho rằng, hiện NHNN bắt đầu đưa tín hiệu về việc bỏ room tín dụng trong bối cảnh thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu phát triển hơn. Thị trường chứng khoán đang tiến tới nâng hạng và đóng vai trò tốt hơn trong thị trường vốn.
Cùng với đó, trước đây, do năng lực kiểm soát tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng còn hạn chế, khiến việc áp dụng cơ chế room tín dụng trở thành một công cụ quan trọng để kiểm soát rủi ro. Đến nay, bối cảnh của ngành ngân hàng đã rất khác, phần lớn các ngân hàng đã hoàn tất việc tuân thủ các tiêu chuẩn theo Basel II và Basel III theo chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện để ngành ngân hàng vận hành theo hướng linh hoạt hơn.
Ngoài ra, đang có sự dịch chuyển trong dòng chảy tín dụng. Trước năm 2022, tăng trưởng bán lẻ cũng cao hơn tăng trưởng cho vay doanh nghiệp. Đến năm 2023, lần đầu tiên tăng trưởng cho vay doanh nghiệp cao hơn tín dụng của cá nhân và đến năm 2024 xu hướng đó vẫn duy trì. Năm 2025, khả năng là với mức tăng trưởng 16% thì cho vay doanh nghiệp vẫn duy trì tăng cao hơn cho vay cá nhân. Bên cạnh đó, việc NHNN cấp thêm room tín dụng cho các ngân hàng hoạt động tốt cũng tạo cơ hội tăng trưởng tốt hơn nhiều./.