Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 45,3 tỷ USD: Duy trì đà tăng trưởng hai con số
Bất chấp những biến động về giá cả và thị trường toàn cầu, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam trong 8 tháng năm 2025 vẫn duy trì đà tăng trưởng hai con số, đạt 45,37 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, riêng tháng 8/2025, kim ngạch xuất khẩu ngành này ước đạt 5,71 tỷ USD, giảm nhẹ 3% so với tháng 8/2024. Trong cơ cấu xuất khẩu, nông sản đạt 24,42 tỷ USD (tăng 13,8%), lâm sản đạt 11,9 tỷ USD (tăng 6,6%), thủy sản 7,03 tỷ USD (tăng 11,5%), sản phẩm chăn nuôi đạt 410,7 triệu USD (tăng 24,5%) và đầu vào sản xuất 1,6 tỷ USD (tăng 30,4%).
Các nhóm hàng ghi nhận mức tăng trưởng vượt trội là chăn nuôi, cà phê, hạt tiêu, hạt điều và cao su, chủ yếu nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng mạnh.
Cụ thể, cà phê đạt 6,42 tỷ USD, tăng tới 59,1%, nhờ giá bình quân tăng 46,4%. Hạt tiêu tăng 26,9% về giá trị dù giảm 9,8% về khối lượng, do giá tăng 40,7%. Cao su tăng 10,2% nhờ giá tăng 11,5%; hạt điều tăng 16,4% dù khối lượng giảm, nhờ giá tăng gần 18%. Riêng sản phẩm chăn nuôi ghi nhận mức tăng 24,5%, trong đó thịt và phụ phẩm tăng 30,4%.

Ngành thủy sản tiếp tục là một trong ba trụ cột lớn nhất về kim ngạch, đạt 7,03 tỷ USD, tăng 11,5%. Đặc biệt, thị trường Trung Quốc tăng đột biến 44,1%, cho thấy tín hiệu phục hồi mạnh mẽ từ thị trường này.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, gỗ và sản phẩm gỗ tiếp tục dẫn đầu với 11,1 tỷ USD (tăng 6,3%), trong đó Hoa Kỳ chiếm tới 56% thị phần, tiếp theo là Nhật Bản (12,4%) và Trung Quốc (10,9%). Thủy sản đứng thứ hai, còn càphê vượt lên vị trí thứ ba nhờ đà tăng giá mạnh.
Các thị trường lớn nhất của nông, lâm, thủy sản Việt Nam tiếp tục là Hoa Kỳ (20,9%), Trung Quốc (19%) và Nhật Bản (7,1%). So với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu sang Mỹ tăng 8,1%, Trung Quốc tăng 2,6% và Nhật Bản tăng mạnh 19,8%.
Bên cạnh những điểm sáng, một số nhóm hàng chủ lực như gạo, rau quả và chè lại ghi nhận sụt giảm giá trị xuất khẩu, chủ yếu do giá bán bình quân giảm.
Gạo có khối lượng tăng 2,2%, nhưng giá trị giảm 17,5% do giá xuất khẩu bình quân giảm gần 20%. Chè giảm cả khối lượng (7,9%) và giá trị (11%). Rau quả giảm 2,2% giá trị, đáng chú ý là thị trường Trung Quốc - đầu ra lớn nhất, giảm tới 15,1%.
Xét theo vùng, châu Á vẫn là thị trường chủ lực, chiếm 43,1% kim ngạch, tiếp theo là châu Mỹ (23,2%) và châu Âu (14,6%). Đáng chú ý, xuất khẩu sang châu Âu tăng tới 38,7%, trong khi châu Phi tăng gấp đôi và châu Mỹ tăng 10,6%.
Một số thị trường ghi nhận tăng trưởng bứt phá như: Cà phê tăng mạnh tại Mexico (91,2 lần), nhưng thấp tại Trung Quốc (11,7%); cao su tăng gấp 3,2 lần tại Malaysia, nhưng giảm hơn 30% tại Ấn Độ; gạo tăng đột biến tại Bangladesh (188,4 lần), nhưng giảm hơn 50% tại Malaysia; rau quả tăng mạnh tại Mỹ (66,3%), giảm mạnh tại Thái Lan (40,4%).
Mặc dù gặp khó khăn về giá ở một số mặt hàng, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam vẫn đang giữ được xu hướng tăng trưởng bền vững. Việc giá bình quân tăng ở nhiều mặt hàng có giá trị lớn như càphê, hạt tiêu, cao su và hạt điều đã góp phần bù đắp sụt giảm từ những nhóm hàng yếu hơn như gạo hay rau quả.
Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng chỉ ra rằng, thị trường xuất khẩu đang phân hóa rõ rệt, đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải đa dạng hóa thị trường, kiểm soát tốt chất lượng và tận dụng các hiệp định thương mại tự do để giữ vững đà tăng trưởng.