Xuất khẩu viên nén gỗ: Cần thêm lực đẩy từ chính sách để phát triển bền vững
Sử dụng nguyên liệu đầu vào là những phụ phẩm tưởng như bỏ đi, nhưng mỗi năm xuất khẩu (XK) viên nén gỗ đóng góp hàng trăm triệu USD trong kim ngạch XK gỗ và con số này kỳ vọng đạt 1 tỷ USD trong năm 2023. Thế nhưng, kim ngạch XK viên nén gỗ trong năm nay dự kiến giảm 15 - 17% so với năm 2022. Ngành viên nén gỗ đang cần các chính sách để thực sự phát triển bền vững (PTBV).
“Lỗi hẹn” với mục tiêu 1 tỷ USD
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest), XK viên nén gỗ của Việt Nam đã tăng gấp 28 lần về khối lượng và 34 lần về giá trị trong 1 thập kỷ qua, kể từ năm 2013. Năm 2022, Việt Nam đã XK 4,9 triệu tấn viên nén gỗ, kim ngạch đạt 790 triệu USD, tăng 30% về lượng và 67% về giá trị so với năm 2021. Đặc biệt, giá XK tăng kỷ lục 150 - 200% so với năm 2021. Với triển vọng này, đầu năm 2023, Viforest đề ra mục tiêu kim ngạch XK mặt hàng này đạt mốc 1 tỷ USD.
Tuy nhiên, bước vào năm 2023 XK viên nén sụt giảm cả về lượng và đơn giá XK. Giá trị XK viên nén tháng 11/2023 chỉ đạt 58 triệu USD, lũy kế 11 tháng đạt 597 triệu USD, giảm 14% so với cùng kỳ năm 2022.
Báo cáo mới nhất của Tổ chức Forest Trends với tựa đề “Ngành viên nén gỗ Việt Nam: Thực trạng và tương lai” cho biết, trong 3 quý đầu năm 2023, XK viên nén của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản đạt 2 triệu tấn, tương đương gần 82% lượng XK vào thị trường này năm 2022. Trong khi đó, lượng viên nén XK vào Hàn Quốc cũng trong 3 quý chỉ đạt gần 1,3 triệu tấn, tương đương 56% lượng xuất vào thị trường này trong cả năm 2022.
“Nếu đà XK như hiện nay được duy trì, quy mô XK năm 2023 sẽ tụt khoảng 15 - 17% so với năm 2022” - TS. Tô Xuân Phúc, Giám đốc điều hành Chương trình Chính sách, Thương mại và Tài chính Lâm nghiệp Forest Trend nhận định.
Cũng theo chuyên gia Forest Trend, lượng viên nén của Việt Nam xuất sang Hàn Quốc giảm không phải là giảm cầu tại thị trường này mà do các doanh nghiệp (DN) Hàn Quốc nhập khẩu viên nén từ các nguồn cung khác. Chuyên gia Forest Trend nhận định dư địa phát triển cho các DN Việt Nam XK viên nén sang Hàn Quốc trong tương lai không nhiều. Tuy nhiên với Nhật Bản, cơ hội mở rộng thị phần tại đây là rất lớn khi nhu cầu tiêu thụ viên nén gỗ tại Nhật Bản được dự báo sẽ mở rộng gấp 3 lần so với hiện tại. Hiện Việt Nam đang cung khoảng 80% viên nén cho thị trường này.
Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách
Báo cáo của Forest Trend cũng chỉ ra, một trong những khó khăn lớn nhất của XK viên nén là tính chưa bền vững về nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào, kể cả về lượng và về tiêu chuẩn, chất lượng. Trong khi các thị trường XK đã, đang và sẽ đòi hỏi các chứng chỉ bền vững.
“Muốn giải quyết các khó khăn này đòi hỏi Chính phủ cần có các cơ chế chính sách hợp lý, đặc biệt là chính sách về cân bằng giữa năng lực chế biến và vùng nguyên liệu rừng trồng” - TS. Tô Xuân Phúc đưa ra ý kiến.
Cụ thể, các cơ quan quản lý tại các địa phương cần tính toán khả năng cung gỗ nguyên liệu của các diện tích rừng trồng (và các cơ sở chế biến) trong phạm vi địa phương của mình, đánh giá năng lực và công suất của các dự án chế biến, dựa trên đó quyết định cấp phép cho các dự án này theo khả năng cung nguyên liệu. Quyết định này cần bảo đảm công suất chế biến của các DN sử dụng cùng nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào (ví dụ cùng nguồn gỗ rừng trồng) không vượt quá khả năng cung nguyên liệu của vùng. Quyết định này cũng đòi hỏi những tính toán về mối tương tác và cạnh tranh giữa các hợp phần chế biến của các DN sử dụng gỗ rừng trồng - bao gồm các cơ sở chế biến đồ gỗ, ván bóc, ván ép, dăm, viên nén…
“Quyết định phê duyệt đầu tư dựa trên việc cân nhắc các khía cạnh này sẽ giúp làm giảm tính cạnh tranh không bền vững về nguồn nguyên liệu đầu vào giữa các DN thuộc các hợp phần khác nhau của ngành gỗ và giữa các DN trong cùng hợp phần. Điều này sẽ góp phần làm cho các DN trong ngành viên nén (và trong các hợp phần khác của ngành gỗ) phát triển bền vững hơn” - chuyên gia Forest Trend phân tích.
Từ đóng góp của XK viên nén khi sử dụng nguyên liệu đầu vào là các phần phụ phẩm của ngành chế biến và/hoặc của nguồn gỗ rừng trồng không được đánh giá cao về giá trị kinh tế, TS. Tô Xuân Phúc khẳng định, ngành viên nén xứng đáng để nhận được sự quan tâm hơn cả về mặt cơ chế, chính sách…
“Tuy nhiên, hiện nay ngành chưa nhận được cơ chế, chính sách nào nhằm thúc đẩy ngành PTBV. Các DN ngành viên nén xứng đáng để nhận được các cơ chế, chính sách dành riêng. Các cơ chế, chính sách có thể là những hỗ trợ trực tiếp dành cho các DN sản xuất (ví dụ ưu đãi trong tiếp cận vốn, công nghệ, đất đai…). Cơ chế, chính sách hỗ trợ cũng có thể là gián tiếp, thông qua các công cụ nhằm khuyến khích mở rộng thị trường XK và tiêu thụ nội địa mặt hàng này, bao gồm ưu đãi về giá điện sử dụng viên nén, ưu đãi đối với các DN chuyển đổi từ nguyên liệu phát thải cao sang sử dụng viên nén” - chuyên gia gợi ý.
Đồng thời quả quyết: “Thực hiện hiệu quả các cơ chế chính sách dành riêng cho ngành viên nén sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy ngành PTBV trong tương lai…”.