Xuất sắc liên tục và cơ hội được tặng bằng khen của Thủ tướng

Nhiều câu hỏi về tiêu chuẩn được nhận bằng khen của Thủ tướng được đặt ra tại các hội nghị, hội thảo liên quan đến Luật Thi đua, khen thưởng mới.

Từ khi Luật Thi đua, khen thưởng (TĐKT) có hiệu lực vào ngày 1-1-2024, nhiều thắc mắc liên quan đến cách hiểu của luật, trong đó có nhiều thắc mắc về tiêu chuẩn bằng khen của Thủ tướng đã được gửi về cổng thông tin điện tử Chính phủ (VGP), Ban TĐKT Trung ương.

 Buổi tập huấn về công tác thi đua, khen thưởng tại TP Đà Nẵng vào ngày 31-5-2024 được cho là nhận được nhiều phản ánh, kiến nghị sát với thực tế của những người làm công tác thi đua, khen thưởng. Ảnh: Website Ban TĐKTTW

Buổi tập huấn về công tác thi đua, khen thưởng tại TP Đà Nẵng vào ngày 31-5-2024 được cho là nhận được nhiều phản ánh, kiến nghị sát với thực tế của những người làm công tác thi đua, khen thưởng. Ảnh: Website Ban TĐKTTW

Tháng 5-2024, trên VGP, bà Lê Thị Vân Anh (ngụ TP.HCM) hỏi về việc bà được tặng bằng khen của bộ trưởng các năm 2019, 2021, 2023; năm năm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (2019-2023); Chiến sĩ thi đua cơ sở các năm 2019, 2022; Chiến sĩ thi đua cấp bộ năm 2022 thì có thể đề xuất được tặng bằng khen của Thủ tướng vào năm 2024 hay không.

Trả lời bà Vân Anh, Ban TĐKT Trung ương xác định “thời gian đề nghị tặng bằng khen của Thủ tướng được tính từ thời điểm được tặng bằng khen của bộ lần gần nhất, tức năm 2023”.

Từ trả lời này của Ban TĐKT Trung ương, có thể thấy những thành tích mà bà Vân Anh đạt được giai đoạn 2019-2023 trở thành số 0 trong trường hợp bà làm hồ sơ để được xét tặng thưởng bằng khen của Thủ tướng.

Hai trường hợp khác cũng đành ngậm ngùi là trường hợp của bà Danh Thu Yến và ông Phạm Thanh Vịnh (cùng ngụ Kiên Giang). Tháng 7-2024, họ gửi email hỏi về việc giai đoạn 2019-2024 đạt Chiến sĩ thi đua cơ sở và năm 2023 được nhận bằng khen của chủ tịch UBND tỉnh, như vậy họ có đủ điều kiện nhận bằng khen của Thủ tướng không.

Trả lời, Ban TĐKT Trung ương viện dẫn điểm b khoản 1 Điều 73 Luật TĐKT năm 2022 về tiêu chuẩn tặng bằng khen của Thủ tướng; khoản 9 Điều 30 Nghị định 98/2023 để chốt rằng: Cơ sở để tính thời gian “có liên tục từ năm năm trở lên đến thời điểm đề nghị được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên” là sau khi được tặng bằng khen của bộ, ban ngành, tỉnh.

Như vậy, trường hợp của ông Vinh, bà Yến, nếu họ muốn được xét tặng bằng khen của Thủ tướng thì phải chờ đến năm 2028.

Ngày 15-7, chị Lưu Thị Thủy (ngụ Bình Dương) gửi email về cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ hỏi cả Bộ Nội vụ và Bộ GD&ĐT rằng: Từ năm 2018 đến 2023, chị luôn được công nhận là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đạt Chiến sĩ thi đua cơ sở, được nhận bằng khen của UBND tỉnh hai lần, bằng khen của bộ trưởng Bộ GD&ĐT. Tuy nhiên, địa phương lại cho rằng hồ sơ xét tặng bằng khen của Thủ tướng của chị không đạt.

Ban TĐKT Trung ương đã có công văn trả lời chị rằng: Cá nhân được tặng bằng khen của UBND tỉnh về thành tích theo công trạng năm học 2018-2019 và bằng khen của UBND tỉnh về thành tích theo công trạng năm học 2022-2023 thì mốc thời gian đề nghị xét tặng bằng khen của Thủ tướng được tính từ sau năm học 2022-2023.

Tuy vậy, trong công văn ngày 19-8 gửi các bộ, ngành, tỉnh... Ban TĐKT Trung ương lại cho rằng trường hợp tương tự như trên lại đủ tiêu chuẩn xét tặng bằng khen của Thủ tướng. Công văn nêu ví dụ: Ông Nguyễn Văn C được tặng bằng khen của bộ, ban ngành, tỉnh vào năm 2019; liên tục từ năm năm trở lên được công nhận hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; trong thời gian đó có ba lần đạt Chiến sĩ thi đua cơ sở các năm 2020, 2021, 2022; thời gian đó ông được tặng bằng khen cấp bộ, tỉnh vào năm 2022. Như vậy, ông Nguyễn Văn C đủ tiêu chuẩn được tặng bằng khen của Thủ tướng.

CHÂN LUẬN

Nguồn PLO: https://plo.vn/xuat-sac-lien-tuc-va-co-hoi-duoc-tang-bang-khen-cua-thu-tuong-post822639.html