2 chủ nhân giải Nobel có sự nghiệp bóng đá vang dội thời trẻ
Nobel không trao giải cho lĩnh vực thể thao, nhưng 2 nhà khoa học nhận giải thưởng danh giá này của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã từng có một sự nghiệp bóng đá vang dội thời thanh niên.
Niels Bohr - Giải Nobel Vật lý (1922)
Niels Bohr đoạt giải Nobel Vật lý năm 1922 nhờ nghiên cứu cấu trúc của nguyên tử và bức xạ. Tuy vậy, thời trai trẻ đam mê của ông là cản phá các trái bóng vào khung thành.
Cha của Niels Bohr, Christian Bohr, là giáo sư sinh lý học tại Đại học Copenhagen. Christian Bohr nổi tiếng với công trình nghiên cứu về khía cạnh vật lý và hóa học trong quá trình hô hấp. Mẹ Ellen Adler Bohr xuất thân từ một gia đình Do Thái giàu có, có ảnh hưởng trong lĩnh vực ngân hàng và chính trị ở Đan Mạch.
Khi còn trẻ, anh em nhà Bohr rất yêu bóng đá. Niels Bohr là một cầu thủ bóng đá xuất sắc và chơi ở vị trí thủ môn của đội bóng Akademisk Boldklub- một trong những đội nổi bật nhất ở Đan Mạch vào đầu thế kỷ 20.
Tuy nhiên, thay vì bóng đá, sau này Bohr đã chọn tập trung vào sự nghiệp học tập.
Ngay từ khi còn nhỏ, Niels đã bộc lộ năng khiếu cơ khí và niềm yêu thích sửa chữa các đồ vật xung quanh nhà.
Tài năng vật lý của chàng trai nổi bật ở trường. Niels thường tìm kiếm thêm thông tin để bổ sung cho chương trình giảng dạy trên lớp và có "thú vui" tìm ra sai sót trong sách giáo khoa.
Năm 1903, ông bắt đầu nghiên cứu tại Đại học Copenhagen và không lâu sau đó, vật lý lý thuyết, đặc biệt là cấu trúc của nguyên tử, thu hút sự chú ý đặc biệt của ông.
Niels đã phát hiện ra rằng quả bóng đá và electron tuân theo các định luật vật lý rất khác nhau, và kích thước đó chắc chắn có ý nghĩa quan trọng quyết định sự khác biệt đó.
Năm 1920, Bohr thành lập Viện Vật lý Lý thuyết Copenhagen (nay đổi tên thành Viện Niels Bohr). Viện nghiên cứu của Bohr tụ họp rất nhiều nhà vật lý tài năng lúc bấy giờ.
Viện Niels Bohr đã dần trở thành trung tâm nghiên cứu vật lý toàn cầu trong những năm 1920-1930, và là "thánh địa" của giới nghiên cứu vật lý toàn cầu.
Năm 1922, Niels Bohr là nhà vật lý học người Đan Mạch đầu tiên đạt Giải Nobel Vật lý vì những đóng góp nền tảng của ông về lý thuyết cấu trúc nguyên tử và cơ học lượng tử sơ khai.
Albert Camus - Giải thưởng Nobel về Văn học (1957)
Albert Camus có một tuổi thơ cơ cực tại Algérie, khi nước này vẫn còn là thuộc địa của Pháp. Cha của Camus là một công nhân làm rượu nghèo và qua đời khi cậu bé mới được 1 tuổi.
Mặc dù rất thương con, nhưng vì mắc bệnh điếc nên hai mẹ con Camus hiếm khi trò chuyện với nhau. Camus, vì vậy, đã lớn lên trong sự cô đơn.
Xuất thân như vậy nên ngay từ khi còn trẻ, chàng trai Camus sớm cảm thấy những điều phi lý của đời người. Ông thấy con người vừa yếu đuối vừa cô độc, sinh tồn trong sự phi lý vì cái chết có thể sập đến bất cứ lúc nào.
Camus tìm đến bóng đá để tạm "xa lánh" hiện thực cuộc sống.
Cậu đã chơi ở vị trí thủ môn trong câu lạc bộ Racing Universitaire d'Alger vào năm 16 tuổi. Tuy vậy, Camus phải kết thúc sự nghiệp thể thao của mình vì mắc bệnh lao một năm sau đó.
Bệnh tật, nghèo đói cùng với những trải nghiệm sống còn trước tử thần đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực và là yếu tố tác động mạnh mẽ đến thế giới quan trong tác phẩm của Camus.
Ông theo học ngành Triết học tại ĐH Algiers. Camus được biết đến vì những đóng góp cho chủ nghĩa phi lý trên lĩnh vực triết học.
Chủ nghĩa phi lý Camus nhấn mạnh đến khoảng trống không thể khỏa lấp giữa mong muốn và thực tại. Con người luôn bị mắc kẹt trong một mớ bòng bong của những mong muốn không thể trở thành hiện thực và cũng mắc kẹt trong một thực tại đầy nghiệt ngã, sẵn sàng dập tắt mọi hy vọng bé nhỏ của con người.
Một số người coi tác phẩm của Camus phản ánh ông là một người theo chủ nghĩa hiện sinh.
Theo Albert Camus, thế giới hay con người không phải phi lý tự nó. Sự phi lý chỉ xuất hiện thông qua sự kết hợp của cả hai, khi mà sự không tương thích giữa con người và thế giới mà họ sống tạo nên sự phi lý của đời sống. Đây là một trong hai góc nhìn về sự phi lý trong văn học hiện sinh.
Năm 1957, Albert Camus được trao tặng Giải Nobel Văn học vì các sáng tác văn học của ông đã "đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại này".