5 cơ hội tăng trưởng của các ngân hàng trong năm 2025
Theo khảo sát mới nhất của Vietnam Report, ngành ngân hàng sẽ có dư địa lớn để phát triển, trong đó nổi bật lên 5 cơ hội tăng trưởng, bao gồm: Đẩy mạnh phát triển các sản phẩm tài chính số; Tăng cường đầu tư chuyển đổi số; Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam; Các bộ luật được sửa đổi và Tinh gọn bộ máy quản lý nhà nước.

Phát triển các sản phẩm tài chính số được coi là cơ hội lớn nhất của ngành ngân hàng. Ảnh minh họa: ST
Cơ hội lớn nhất từ phát triển sản phẩm tài chính số
Phản hồi khảo sát được tiến hành tháng 5/2025, các ngân hàng và các chuyên gia nhận định, việc phát triển các sản phẩm tài chính số được coi là cơ hội lớn nhất với tỷ lệ trên 90% doanh nghiệp, chuyên gia lựa chọn.
Các ngân hàng đã và đang tích cực triển khai các dịch vụ ngân hàng số, ví điện tử, thanh toán không tiền mặt, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) hỗ trợ khách hàng… và các sản phẩm tài chính như sinh lời tự động, cho vay ngang hàng (P2P Lending), cũng như hàng loạt các tiện ích khác nhờ Open API (nền tảng mở cho phép bên thứ ba truy cập vào dịch vụ và dữ liệu ngân hàng để tạo ra các dịch vụ tài chính mới).
Nhờ đó, các ngân hàng ngày càng tiếp cận được tập khách hàng đa dạng hơn, tận dụng được lượng lớn nguồn vốn rẻ từ lượng tiền gửi không kỳ hạn (CASA) rất lớn của nhóm khách hàng cá nhân. Không chỉ dừng lại ở sản phẩm tài chính số, chuyển đổi số ngành ngân hàng đã được triển khai rộng rãi, trở thành chiến lược tổng thể, bao gồm tự động hóa quy trình, tối ưu vận hành và khai thác dữ liệu khách hàng hiệu quả.
Cơ hội tiếp theo cho ngành ngân hàng đến từ triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Cụ thể, Ngân hàng nhà nước (NHNN) định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2025 ở mức khoảng 16%, nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% và gấp rút hoàn thành kế hoạch 5 năm 2021-2025.
Theo NHNN, đến hết quý I/2025, tăng trưởng tín dụng đạt 3,93%, gấp 2,5 lần so với mức 1,42% cùng kỳ năm trước. Qua đó, dư nợ tín dụng toàn hệ thống được kỳ vọng tăng bình quân 4,39% trong quý II và tăng 16,4% trong năm 2025.
Đảm bảo tăng trưởng tín dụng là cơ sở để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng cả năm, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của ngành ngân hàng như một “đầu tàu” dẫn dắt nền kinh tế mở ra kỷ nguyên vươn mình và đón nhận làn sóng cơ hội mới: nhu cầu vốn của doanh nghiệp gia tăng, thị trường tiêu dùng mở rộng, và hoạt động đầu tư sôi động hơn.
Các chuyên gia cho rằng, đây là cơ hội để các ngân hàng phát triển các sản phẩm, dịch vụ tài chính mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường và đóng góp tích cực vào quá trình phục hồi và phát triển chung của đất nước.
Đáng chú ý, Luật Các TCTD (sửa đổi) chính thức có hiệu lực từ 01/7/2024, tập trung tháo gỡ khó khăn trong xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm và tái cơ cấu TCTD yếu kém. Luật quy định rõ về xử lý kiểm soát đặc biệt, can thiệp sớm, góp phần nâng cao an toàn hệ thống và củng cố niềm tin thị trường.
Liên quan đến quy định pháp luật, các bộ luật được sửa đổi, hoàn thiện nhằm đồng bộ hóa khung pháp lý, tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD).
Vào cuối năm 2024 và đầu năm 2025, NHNN đã hoàn thành chuyển giao bắt buộc 4 ngân hàng yếu kém cho các ngân hàng thương mại (NHTM) lớn. Bên cạnh những thách thức khi đảm nhận trọng trách tái cơ cấu các ngân hàng này, các ngân hàng nhận chuyển giao cũng được nhận hỗ trợ phục hồi từ NHNN, bao gồm các khoản vay ưu đãi, cũng như ưu tiên tăng trưởng tín dụng để mở rộng hoạt động.
Ngoài ra, các ngân hàng nhận chuyển giao có cơ hội mở rộng mạng lưới, thu hút nhà đầu tư khi tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài được nâng lên 49%, thay vì mức trần 30% như trước đây.
Sự chặt chẽ trong hệ thống luật pháp và thành công của quá trình chuyển giao bắt buộc sẽ là động lực quan trọng giúp các ngân hàng nhận chuyển giao và các NHTM nói chung tăng trưởng bền vững, lành mạnh và vững chắc hơn trong giai đoạn tới.
Cuối cùng, tinh gọn bộ máy quản lý nhà nước đề cập đến việc hợp nhất bộ, ngành và sáp nhập tỉnh thành, cũng như cắt giảm những cơ quan trùng lặp chức năng nhiệm vụ và tiến tới xem xét tinh gọn cấp huyện, được kỳ vọng sẽ bước ngoặt lớn và mang lại cơ hội đáng kể cho ngành ngân hàng.
Khi đó, các thủ tục hành chính sẽ được giảm tải, việc cấp phép các dự án rút ngắn, kéo theo nguồn vốn cho vay nhanh chóng được đưa vào nền kinh tế. Ngoài ra, sau sáp nhập sẽ hình thành các tỉnh có quy mô kinh tế lớn hơn, tự chủ hơn trong công tác phân bổ đầu tư công và tạo sức hấp dẫn vốn đầu tư trong và ngoài nước, hướng đến sự phát triển toàn diện, đồng đều giữa các tỉnh thành, khu vực trên cả nước.
Tuy nhiên, những việc này cũng đặt ra nhiều thách thức, thời kỳ “quá độ” có thể tồn tại những vướng mắc, phức tạp khi hệ thống chưa được chuyển đổi đồng bộ, và các cơ quan cũng cần có thời gian để quen với chức năng, nhiệm vụ mới.

Các ngân hàng thương mại đã có kết quả kinh doanh tốt trong quý I/2025. Ảnh minh họa: ST
Nền tảng tăng trưởng được tái thiết vững chắc
Tổng hòa những cơ hội cùng nhận định về sự phát triển ổn định, các NHTM đã có kết quả kinh doanh tốt trong quý I/2025. Xét trong nhóm 27 NHTM đại chúng, tổng thu nhập hoạt động trên 165 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế trên 66 nghìn tỷ đồng, tương ứng với mức tăng lần lượt 9,3% và 15,3% so với cùng kỳ năm 2024. Điểm sáng của toàn hệ thống khi không ghi nhận ngân hàng lợi nhuận âm, trong khi tại thời điểm cuối năm 2024, con số này là 1 ngân hàng.
Năm 2025 hứa hẹn sẽ tiếp tục là một năm tích cực cho ngành ngân hàng Việt Nam, khi các “cơn bão” lớn đã lùi lại phía sau và nền tảng tăng trưởng đang được tái thiết vững chắc.
Chất lượng tài sản toàn ngành ngân hàng được kỳ vọng tiếp tục cải thiện trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng tốt, áp lực từ nợ xấu giảm đáng kể. Nhìn chung, tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM đã đạt đỉnh vào quý III/2023 và đã được kìm hãm một phần khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN được ban hành. Năm 2024, nợ xấu bắt đầu hạ nhiệt khi các khoản nợ được cơ cấu, mặt bằng lãi suất ổn định ở mức thấp, và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phục hồi, tỷ lệ nợ xấu quanh mức 1,93-2,22%.
Nhưng vẫn cần lưu ý một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 4% và cá biệt khi ghi nhận ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên 14% vào quý I/2025, mặc dù con số này đã giảm từ 35,3% vào quý I/2024. Xét trên giá trị, tổng nợ xấu các NHTM đã vượt 300 nghìn tỷ đồng vào cuối quý I/2025, tăng 16,8% so với cùng kỳ 2024 và tăng 13,4% so với đầu năm.
Tuy nhiên, rủi ro tiềm ẩn vẫn tồn tại, đặc biệt khi Thông tư 02/2023/TT-NHNN hết hiệu lực từ ngày 01/01/2025, có thể dẫn đến việc một số khoản nợ tái cơ cấu không còn được hưởng chính sách và buộc phải phân loại lại vào nhóm nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu trong quý đầu năm 2025 đã tăng nhẹ so với quý trước đó, nhưng cơ cấu các nhóm trong nợ xấu lại có sự chuyển biến rõ rệt, nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) đã đạt kỷ lục chiếm 1,25% tổng dư nợ cho vay khách hàng, trên 176 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% so với đầu năm và cao hơn con số tổng nợ xấu vào cuối năm 2022.
Tổng dự phòng rủi ro tín dụng của các NHTM trong quý I/2025 là 253 nghìn tỷ đồng, bao phủ 84,4% nợ xấu. Chi phí trích lập đã lên tới 163,2 nghìn tỷ vào năm 2024, tăng 13,1% so với năm trước đó. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của các NHTM đã tương đối ổn định, tuy nhiên con số đã giảm xuống dưới 100% kể từ quý III/2023 và hiện vẫn chưa phục hồi hoàn toàn để đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận kế hoạch.
Dù vậy, mức độ gia tăng nợ xấu dự báo sẽ ở mức vừa phải và trong tầm kiểm soát, nhờ các ngân hàng đã chủ động trích lập dự phòng bổ sung một cách thận trọng cho các khoản nợ tiềm ẩn rủi ro.
Bộ đệm dự phòng cũng có sự phân hóa rõ rệt giữa các nhóm có quy mô khác nhau. Các NHTM có quy mô tài sản trên 1 triệu tỷ luôn có đủ nguồn lực trích lập dự phòng, LLR luôn trên 125% dù không tránh khỏi xu hướng suy giảm. Ở nhóm quy mô dưới 300 nghìn tỷ đồng, LLR hoàn toàn trái ngược, đã xuống dưới 40% từ năm 2023, đi qua vùng đáy 29% vào quý II/2024 và hiện đã tăng 38%.
Khi hàng trăm nghìn tỷ nợ xấu được xử lý, đó sẽ là dòng tiền quay trở lại thị trường cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Để làm được điều này không chỉ chờ các doanh nghiệp tự xoay xở trong khủng hoảng mà cần sự tham gia của các bên liên quan.
Trong giai đoạn 2017-2023, Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD từng mở ra một cơ chế đặc thù, giúp TCTD xử lý tài sản nhanh chóng và hiệu quả hơn. Nhưng khi Nghị quyết hết hiệu lực, các TCTD đã không còn cơ chế chủ động thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nợ.
Trong khi đó, Luật các TCTD 2024 chưa kế thừa nội dung quan trọng này. Hiện nay, NHNN đã lấy ý kiến các bên để dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD 2024. Những cơ chế đặc thù giúp các TCTD xử lý nợ xấu được kỳ vọng sớm ban hành trong thời gian tới sẽ hoàn thiện hơn khung pháp lý, giảm bớt áp lực trích lập dự phòng, luân chuyển dòng vốn quay trở lại thị trường./.