50 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ: Những dự báo thiên tài của Bác
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có dung lượng nhỏ về con chữ, ta có thể đếm được từng câu, từng chữ trên văn bản, nhưng tư tưởng thì vô cùng lớn lao.
Người không chỉ thấu đáo hiện tại mà còn dự liệu, trù tính sâu xa cho những công việc tương lai của đất nước với sự mẫn cảm đặc biệt về con người, cuộc sống, đặc biệt là quy luật phát triển của lịch sử.
“Việt Nam độc lập - 1945”
Là một người có nhãn quan chính trị nhạy bén, sắc sảo và một tầm nhìn vượt trước thời gian, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, trên cơ sở am hiểu tường tận lịch sử, văn hóa dân tộc, dịch học phương Đông, phép biện chứng duy vật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những dự báo thiên tài. Điều này càng được khẳng định thông qua Di chúc Người để lại với những dự báo chính xác về tương lai cách mạng Việt Nam.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, Người lại đưa ra những tiên đoán kỳ diệu với độ chính xác gần như tuyệt đối. Thiên hướng đó ở Người bộc lộ khá sớm. Trong một bức thư gửi cho nhà cách mạng yêu nước Phan Chu Trinh vào tháng 8-1914 từ nước Anh, Người đã viết: “Tiếng súng đang rền vang. Thây người đang phủ đất. Năm nước lớn đang đánh nhau. Chín nước đang vào vòng chiến. Cháu bỗng nhớ cách đây vài tháng cháu đã nói với bác về cơn sấm động này...”. Điều đó có nghĩa là trước đó Bác đã dự đoán trước được cuộc đại chiến thế giới 1914-1918 sắp nổ ra.
Đối với vận mệnh dân tộc, cuối năm 1941, sau khi Bác từ Trung Quốc về Pắc Bó (Cao Bằng), Người đã viết tập diễn ca “Lịch sử nước ta” với lời mở đầu “Dân ta phải biết sử ta/Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” và ở câu kết, Bác khẳng định: “Việt Nam độc lập-1945”. Đúng như người tiên đoán, 4 năm sau, vào ngày 2.9.1945, chính Người đã đứng tại Quảng trường Ba Đình, đọc vang bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chiến thắng Pháp rồi, còn phải đánh Mỹ
Năm 1949, trong truyện ngắn “Giấc ngủ mười năm” với bút danh Trần Lực do Tổng bộ Việt Minh xuất bản, Người phác họa sự biến đổi của đất nước ta và con người Việt Nam sau chiến tranh. Trong đó Người vẽ ra viễn cảnh của xã hội nước ta sau khi chiến tranh kết thúc cho đến năm 1958 với những sự kiện gần như xác thực. Đặc biệt Người đã mô tả trận đánh cuối cùng có quy mô to lớn, ác liệt; giặc Pháp đã phải huy động “từng đàn, từng lũ máy bay... tủa ra như ong”. “Chúng dội bom xuống như mưa. Tốp máy bay này về thì tốp khác tới, chúng thay nhau ném bom... tiếng nổ long trời chuyển đất, khói lên nghi ngút như mây”. Qua sự miêu tả ấy, chúng ta đều liên tưởng đến trận đánh quyết chiến, quyết thắng mang tầm chiến lược đã diễn ra ở Điện Biên Phủ năm 1954.
Cùng liên quan đến sự kiện này, đầu năm 1953, trên khắp các chiến trường, cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp đang trong giai đoạn ác liệt nhất. Nhưng trong bài thơ chúc Tết, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định chắc chắn: “Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi/Độc lập thống nhất, nhất định thành công”. Và Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7.5.1954 đã chứng minh dự đoán của Người hoàn toàn chính xác.
Một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhắc nhở đồng chí Tố Hữu về công tác tư tưởng, Người chỉ rõ: “Chiến thắng Pháp rồi, phải nhớ trước mặt ta còn có kẻ địch hùng mạnh hơn, hung ác hơn, đó là đế quốc Mỹ”. Trong bức điện gửi cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Người cũng nhắc nhở: “Thắng lợi tuy lớn nhưng chỉ bước đầu đấy!... Còn phải đánh Mỹ…”. Lúc bấy giờ ít ai nghĩ rằng đế quốc Mỹ vừa bị tổn thất nặng nề trong chiến tranh Triều Tiên, lại có thể thay chân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Song, lịch sử đã diễn ra đúng như Người nhận định.
“Chậm lắm là 15 năm nữa Tổ quốc ta nhất định thống nhất”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều lần dự báo về kết quả cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta và thời điểm đất nước thống nhất.
Năm 1960, trong một bản thảo chuẩn bị cho lễ kỷ niệm Quốc khánh 2-9, Bác Hồ đã tiên đoán về sự kiện ta giải phóng miền Nam: “Chậm lắm là 15 năm nữa Tổ quốc ta nhất định thống nhất, Bắc Nam nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Trong bản Di chúc đề ngày 15.5.1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán chính xác vấn đề mang tính vận mệnh dân tộc: “Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Vào cuối năm 1967, đầu năm 1968, Người lại dự báo: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua… Ở Việt Nam Mỹ sẽ nhất định thua. Nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.
Trong bản Di chúc được Người viết vào ngày 10.5.1969, Người đã khẳng định niềm tin tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, dù vào thời điểm ấy, cuộc chiến đấu của nhân dân cả nước đều đang trong giai đoạn vô cùng gay go, quyết liệt. Người đã khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Lịch sử đã diễn ra đúng như dự báo của Người. “Nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội” - năm 1972, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng lẫy lừng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", buộc một đế quốc sừng sỏ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán, tiến tới ký Hiệp định Paris. Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu - nguyên Phó Chính ủy Quân chủng Phòng không Không quân cho biết: Thắng lợi này là kết quả của tầm nhìn xa trông rộng, sự sáng suốt của Hồ Chủ tịch từ đầu những năm 1960, khi Người dự báo khả năng chúng ta sẽ phải chiến đấu với không quân Mỹ nên đã chỉ đạo nghiên cứu cách đánh B52.
Và đúng 15 năm sau - năm 1975, dân tộc ta đã được ca khúc khải hoàn, khi đã đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước, hoàn thành di nguyện của lãnh tụ Hồ Chí Minh - non sông liền một dải, “Bắc-Nam sum họp một nhà”.
Có thể thấy, những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những tiên tri của Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nói chung, cũng như trong bản Di chúc nói riêng, đến tận hôm nay vẫn rất thời sự, vẫn là những bài học quan trọng đối với đất nước ta trên bước đường phát triển.