50 năm Văn học Việt Nam từ sau 1975: Thiếu vắng tác phẩm đỉnh cao?

Vừa qua, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức Hội thảo 'Văn học Việt Nam sau năm 1975 - Thành tựu, vấn đề và triển vọng' thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà văn, nhà lý luận - phê bình. Nửa thế kỷ nhìn lại, văn học Việt Nam sau 1975 đã đồng hành cùng dân tộc trên hành trình đi qua chiến tranh, hậu chiến và đến với thời đại hội nhập với nhiều thành tựu và đổi mới, nhưng theo nhận định của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều thì 'vẫn không có tác phẩm ngang tầm thời đại'...

Hội thảo "Văn học Việt Nam sau năm 1975 - Thành tựu, vấn đề và triển vọng" được Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở cả TP Hồ Chí Minh (16/9) và Đà Nẵng (26/9). Tại Hội thảo diễn ra ở Hà Nội, đã có 11 tham luận được gửi đến cho ban tổ chức từ trước đó và có những ý kiến được phát biểu, trao đổi trực tiếp ngay tại hội thảo.

Trên tinh thần khoa học, khách quan, xây dựng và đặc biệt là tôn trọng ý kiến khác mình để văn học Việt Nam phát triển, Hội thảo đã lắng nghe và ghi nhận những đánh giá đa chiều về một giai đoạn văn học đầy màu sắc đã trải qua sau 50 năm kể từ ngày đất nước thống nhất.

Một số nhà văn tham dự Hội thảo "Văn học Việt Nam sau năm 1975 - Thành tựu, vấn đề và triển vọng".

Một số nhà văn tham dự Hội thảo "Văn học Việt Nam sau năm 1975 - Thành tựu, vấn đề và triển vọng".

Tổng hợp nhiều ý kiến đã được trình bày từ hội thảo được tổ chức tại Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh, nhà thơ Nguyễn Bình Phương - Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhận định: “Ở khía cạnh “vị nhân sinh”, các ý kiến cho rằng, 50 năm qua văn học đã làm tốt thiên chức và sứ mệnh của mình, đã khắc họa tình thế của dân tộc, thân phận của con người trong dòng chảy đầy biến động của lịch sử phát triển. Văn học của chúng ta đã dũng cảm mổ xẻ các vấn đề của xã hội, cũng “khâu vá” được những vết thương hậu chiến trong lòng dân tộc và cũng đã kiến tạo được những nét văn hóa riêng.

Nhưng, ở mặt bên kia của vấn đề, cũng có ý kiến rất nghiêm khắc cho rằng, 50 năm qua, văn học của chúng ta chưa làm tốt chức năng của mình trong việc kiến tạo đời sống tinh thần cho xã hội theo hướng nhân văn và tốt đẹp, còn lảng tránh những sự thật, góc khuất mà con người đang vấp phải, chưa kịp thời rung những tiếng chuông cảnh báo về những rạn nứt của xã hội và của con người trên mặt đạo đức, lý tưởng và phẩm giá.

Ở khía cạnh “vị nghệ thuật”, cũng có ý kiến đánh giá một cách hào sảng rằng văn học 50 năm qua thực sự phong phú, đa dạng, thậm chí là táo bạo. Văn học đã tạo được những nét riêng cho mình so với những giai đoạn trước 1975 và 1945, đồng thời tạo được một đội ngũ tác giả đông đảo với nhiều tác phẩm, cũng đã đo được chiều sâu tâm hồn của người Việt thời hiện đại.

Nhưng, cũng có ý kiến cho rằng, văn học 50 năm qua của chúng ta vẫn chủ yếu là một “dòng đại thể xuôi chiều”, ít những tiếng nói đa dạng, ít những chuyển động tìm kiếm một cách quyết liệt, triệt để; và thiếu những tác phẩm để đời có giá trị, thậm chí thiếu cả những tác giả bề thế, đủ sức mang văn học Việt Nam ra với thế giới và đứng ngang hàng với thế giới...”.

Ở góc của những “đánh giá hào sảng” như nhà văn Nguyễn Bình Phương đề cập, nhà văn Văn Chinh là người đồng quan điểm khi cho rằng: “Tên cuộc Hội thảo nó buộc dẫn đến một so sánh với văn học trước 1975. Tôi cho rằng, các nhà văn sáng tác trước năm 1975 kể cả Nguyễn Minh Châu đến Đỗ Chu, Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Trần Nhuận Minh, kể cả Hữu Thỉnh với “Sức bền của đất”... đều viết bằng tài hoa. Và, tài hoa là không đủ điều kiện để đảm bảo cho tác phẩm lớn ra đời. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, sau 1975, chúng tôi mới có cái để so sánh với nền văn học trước 1945 với những tác phẩm sừng sững như “Mùa lá rụng trong vườn”, “Mưa mùa hạ”, “Sự mất ngủ của lửa”...

Bên cạnh đó, Đại tá, nhà thơ Trần Anh Thái trong tham luận “Cuộc đổi mới văn học 1975-2025” nhận định: “Văn học đổi mới cố gắng đi vào những tầng sâu kín nhất, khao khát hướng tới những vấn đề cốt lõi của đời sống con người. Những tác phẩm như thế thường mang tính phản tỉnh cao. Nó tự phê phán và không ngần ngại bóc trần sự thật, dám viết lên những điều mà văn học trước đó chưa từng được biết đến, tất cả chỉ với mục tiêu nâng đỡ con người, hướng con người tới những điều tốt đẹp... Có thể nói, văn học Việt Nam sau 50 năm đã tiến một bước dài trên con đường hiện đại hóa để từng bước hội nhập vào nền văn học thế giới...”.

Nhận định gây chú ý của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đưa ra tại Hội thảo khi cho rằng, trong 50 năm qua, tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” (1990) của nhà văn Bảo Ninh thuộc số ít tác phẩm đỉnh cao. Tuy nhiên, sau Bảo Ninh, chưa sáng tác nào tiếp nối con đường ông đã đi. Chính vì thế, câu hỏi "Văn học Việt Nam khi nào có tác phẩm đỉnh cao?" tiếp tục được nhắc lại nhiều lần trong hội thảo, nối tiếp những trăn trở của nhiều người sáng tác cũng như giới lý luận phê bình đã tồn tại âm ỉ từ lâu.

Sau năm 1986 kể từ dấu mốc của Đổi mới, nhiều cây bút cũng có sự thay đổi mạnh mẽ như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Hữu Thỉnh, Trần Nhuận Minh... Tuy nhiên, theo nhận định của PGS.TS Nguyễn Văn Dân, các tác giả mới chỉ quan tâm số phận cá nhân mà ít để ý thân phận con người, dân tộc và thẳng thắn chỉ ra rằng: ''Với tình trạng văn học 'thiếu đỉnh cao' của chúng ta hiện nay, công việc sáng tác rất cần có sự tác động của lý luận - phê bình''.

GS. Phong Lê, trong phần tham luận của mình, cũng bày tỏ hy vọng sẽ có những đổi thay lớn trong tương lai với thế hệ trẻ: “Là người viết và cũng là người đọc thuộc thế hệ sống trọn vẹn trong 3 cuộc chiến chống xâm lược và chống đói nghèo suốt hơn nửa thế kỷ, tính từ sau 1945 cho đến hết thập niên 1990, tôi rất mong mỏi có những đổi thay lớn trong tương lai văn học, nghệ thuật nước nhà đang chuyển sang vai các thế hệ trẻ - là sản phẩm và là chủ thể của hiện thực mới hôm nay, của chính cái thời chúng ta đang sống hôm nay...”.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam:

Tôi cho rằng, với Hội thảo này mang tính tổng kết nhưng lại gợi mở ra rất nhiều vấn đề đối với các nhà văn đương đại. Văn học Việt Nam sau 1975 có một giai đoạn rất quan trọng, đó là giai đoạn đổi mới, là bước ngoặt lớn và nghiêm khắc để có thể nhìn lại và đánh giá một cách khách quan các tác phẩm ra đời trước năm 1975.

Giai đoạn đổi mới cũng đẻ ra rất nhiều khuynh hướng, trường phái, mỹ học trong văn xuôi, thơ ca, lý luận phê bình, trong đó cũng phải nhắc đến sự tác động của văn học thế giới tới văn học Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.

Nhiều nhà văn của châu Âu khát khao có được một lịch sử, một hiện thực đầy biến động, đầy cảm xúc như Việt Nam nhưng tại sao cho đến bây giờ văn học Việt Nam vẫn không có tác phẩm ngang tầm thời đại?

Câu hỏi ấy, không ai khác, chỉ có chính các nhà văn mới trả lời được. Trong những vật cản đối với văn học Việt Nam trong 50 năm qua, tôi cho rằng, vật cản to lớn nhất, khó khăn nhất và phức tạp nhất, nguy hiểm nhất chính là các nhà văn. Vì chúng ta không thoát được khỏi cái bóng, lối mòn trong suy nghĩ, cảm xúc của chính chúng ta...

PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp:

Tôi cho rằng, văn học 1930-1945 có Nam Cao là một đỉnh cao nhưng đọc Nguyễn Huy Thiệp cũng không kém. Vũ Trọng Phụng là nhà văn đô thị đậm đặc nhất nửa trước thế kỷ XX, nhưng nay Nguyễn Việt Hà viết về đô thị cũng rất xuất sắc. Hội Nhà văn đang ở đâu trong việc khẳng định và tôn vinh các tác phẩm văn học đích thực?

Chị Đỗ Thị Tấc vừa rồi đặt ra một vấn đề là: “Tại sao các nhà văn thích dìm nhau và thời gian để cãi nhau nhiều hơn thời gian để viết những tác phẩm xuất sắc?”. Thời gian ấy hãy viết đi mới là quan trọng. Các nhà văn tài năng, theo tôi, họ không có thời gian cho những chuyện ấy...

Có lẽ, nhân hôm nay chúng ta nên nói thẳng, nói thật để phản biện vì sự phát triển của nền văn học. Thời của chúng ta đang sống là thời của hành động, chúng ta hãy làm thế nào để có được những tác phẩm xuất sắc. Các nhà văn hãy chuyển hóa năng lượng, giải phóng năng lượng để phục vụ công việc sáng tác, biến nó thành tác phẩm...

Nguyệt Hà

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/50-nam-van-hoc-viet-nam-tu-sau-1975-thieu-vang-tac-pham-dinh-cao--i784811/