6 nhóm bệnh nền dễ trở nặng và gây biến chứng cao nếu mắc cúm
Những người đang mắc các bệnh nền khi mắc cúm dễ có nguy cơ phát sinh các biến chứng nặng và phức tạp như viêm phổi, suy hô hấp, suy đa tạng…và dễ dẫn đến các rủi ro sức khỏe khó lường.
Vậy bệnh nền liên quan bệnh cúm là gồm những bệnh nào?
1. Người đang mắc bệnh phổi mạn tính
Virus cúm là một loại virus tấn công chủ yếu đường hô hấp. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi những người mắc bệnh phổi mạn tính được coi là có nguy cơ cao mắc cúm và phát sinh các biến chứng nguy hiểm cho cơ thể ở phổi, thận, gan...
Bao gồm các tình trạng bệnh lý hô hấp sẵn có như: Hen suyễn; Giãn phế quản; Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), viêm phế quản mãn tính và khí phế thũng; Xơ phổi và các bệnh phổi kẽ khác.
Nguy cơ có thể thay đổi tùy theo loại bệnh hô hấp liên quan: COPD và bệnh phổi kẽ được đặc trưng bởi tình trạng xơ hóa và mất tính đàn hồi của phổi. Điều này có thể làm giảm khả năng tự thở của một người nếu nhiễm cúm xảy ra; Hen suyễn không gây ra xơ hóa, nhưng nhiễm trùng có thể gây ra một cuộc tấn công nghiêm trọng và có khả năng đe dọa đến tính mạng, đặc biệt ở những người kiểm soát hen suyễn kém; Giãn phế quản có liên quan đến việc sản xuất chất nhầy dư thừa. Nếu viêm phổi phát triển do biến chứng sau mắc cúm, sự tắc nghẽn đường thở có thể gây nguy hiểm tính mạng.
2. Người suy giảm miễn dịch
Những người bị suy giảm miễn dịch là những người có hệ thống miễn dịch yếu, khiến họ không có khả năng chống lại nhiễm vi khuẩn và virus. Việc mất khả năng miễn dịch không chỉ làm tăng nguy cơ nhiễm cúm, mà còn làm tăng khả năng hình thành các biến chứng sau mắc cúm.
Suy giảm miễn dịch ảnh hưởng đặc trưng ở những nhóm người sau: Người nhiễm HIV; Người trải qua hóa trị và xạ trị ung thư; Người nhận ghép tạng, những người đang dùng thuốc ức chế miễn dịch lâu dài để ngăn ngừa thải ghép tạng; Người bị suy giảm miễn dịch nguyên phát, thường liên quan đến khiếm khuyết di truyền.
3. Người bệnh tim mạch
Các hệ thống hô hấp và tim mạch vốn đã được liên kết chặt chẽ với nhau. Oxy được nhận từ phổi đều được tim và hệ thống tuần hoàn phân tán khắp cơ thể. Khi nhiễm virus cúm đường hô hấp sẽ làm hạn chế trao đổi khí của phổi, tim phải làm việc nhiều hơn để đảm bảo nguồn cung cấp oxy cho các cơ quan quan trọng của cơ thể như não, thận, tim...
Ở những người đã mắc bệnh tim mạch từ trước như tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, bệnh mạch vành, rối loạn nhịp tim…gây tăng gánh nặng cho tim, không chỉ làm tăng mức độ nghiêm trọng của huyết áp cao mà còn có khả năng làm bộc phát cơn đau tim hoặc đột quỵ.
4. Người bệnh đái tháo đường
Bệnh đái tháo đường type 1 và 2 đều gây ra sự gia tăng bất thường lượng đường trong máu nếu không được kiểm soát. Mất khả năng kiểm soát lượng đường trong máu là lý do chính tại sao một số người mắc bệnh đái tháo đường có nhiều khả năng mắc cúm và gặp phải tình trạng bệnh trở nặng hơn.
Tăng đường huyết mạn tính có thể dẫn đến một tình trạng gọi là nhiễm toan, trong đó các axit được gọi là ketone làm giảm sản xuất tế bào miễn dịch, bao gồm tế bào lympho T và bạch cầu đa nhân trung tính. Và kết quả làm tăng khả năng bị lây nhiễm cúm và phát sinh các biến chứng sau mắc cúm.
5. Người bệnh gan
Nhiễm cúm có thể làm phức tạp bệnh gan có sẵn từ trước, bằng chứng là có tăng men gan và làm xấu đi bệnh gan, bao gồm các bệnh gan do virus.
Một số chuyên gia cho rằng nhiều loại thuốc được sử dụng để điều trị nhiễm trùng đường hô hấp nghiêm trọng, bao gồm kháng sinh, thuốc chống virus và steroid có thể gây hại cho tế bào gan.
6. Người bệnh thận mạn tính
Bệnh thận mãn tính (CKD), cúm có thể làm tăng nguy cơ bệnh trở nặng hơn. Nguy cơ tăng lên cùng với mức độ nghiêm trọng của bệnh, trong đó những người đang chạy thận có nguy cơ cao nhất.
Những người bị bệnh thận mạn tính tiến triển thường đã có sẵn suy giảm hệ thống miễn dịch, có thể góp phần làm tăng nguy cơ mắc cúm. Bởi vì chức năng của phổi, tim và thận có liên quan đến nhau, bất kỳ sự suy yếu nào của một cơ quan này sẽ luôn tác động đến những cơ quan khác. Nếu xuất hiện biến chứng viêm phổi sau mắc cúm sẽ kéo theo thận cũng bị tổn thương nặng hơn.
Tóm lại: Những người có bệnh nền, có các yếu tố nguy cơ càng phải thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phòng chống cúm theo Bộ Y tế và quản lý tốt các bệnh nền sẵn có là những cách tốt nhất để giảm thiểu rủi ro biến chứng sau nhiễm cúm.
Nếu không có chống chỉ định, những người có bệnh nền nên được tiêm phòng vaccine cúm hằng năm, miễn dịch với cúm được hình thành ngay sau khoảng 2 tuần tiêm phòng cúm.