6 thập kỷ trở thành siêu cường hạt nhân của Trung Quốc và cam kết 'không sử dụng trước'
Cách đây 60 năm, Trung Quốc đã tiến hành vụ thử vũ khí nguyên tử đầu tiên của mình, khởi đầu cho hành trình trở thành một siêu cường hạt nhân.
Thời khắc lịch sử
60 năm trước, tại sa mạc Lop Nur xa xôi ở khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, Trung Quốc đã kích nổ thành công quả bom nguyên tử đầu tiên, có mật danh là “Miss Qiu” (cô Khâu).
Cuộc thử nghiệm được tiến hành vào ngày 16/10/1964 và phản ứng dây chuyền phân hạch mà nó gây ra đã làm tan chảy nửa trên của một tòa tháp sắt cao 120 mét. Đó là một thời điểm mang tính bước ngoặt trong quá trình theo đuổi vũ khí hạt nhân của Trung Quốc.
Vụ thử được tiến hành vào thời điểm Trung Quốc đang gặp phải những thách thức chính trị to lớn: liên minh với Liên Xô tan vỡ và Moscow đã rút lại sự hỗ trợ về công nghệ với Bắc Kinh vào cuối những năm 1950, Trung Quốc đang rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc.
Nhưng vụ nổ đã đẩy nhanh quá trình phát triển sức mạnh hạt nhân của Trung Quốc trước thời hạn quan trọng do Mỹ, Liên Xô và Vương quốc Anh đưa ra cho Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT).
Hiệp ước này xác định rằng đầu năm 1967 sẽ là thời hạn cuối cùng để xác định và công nhận các quốc gia có vũ khí hạt nhân là "quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân" hợp pháp, có đặc quyền sở hữu loại vũ khí hủy diệt hàng loạt này một cách hợp pháp.
Đồng thời với việc phát triển chương trình vũ khí hạt nhân, Trung Quốc cũng phát triển công nghệ tên lửa của mình. Vào ngày 27/10 năm 1966, Trung Quốc đã phóng một tên lửa đạn đạo tầm trung Dong Feng-2 (DF-2) có gắn đầu đạn hạt nhân. Cuộc thử nghiệm đã mang lại cho nước này khả năng phóng bom hạt nhân bằng tên lửa thay vì bằng máy bay.
Vào ngày 17/6 năm sau tại Lop Nur, Trung Quốc đã thử nghiệm thiết bị nhiệt hạch đầu tiên của mình: một quả bom khinh khí – loại vũ khí hạt nhân tiên tiến hơn, mạnh hơn so với bom nguyên tử.
Nhà sử học Zhang Jing của Đại học Bắc Kinh cho rằng những động thái thách thức "chiến thuật" này nhằm mục đích nâng cao tinh thần của Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị gia tăng.
Chủ tịch Mao Trạch Đông từng tuyên bố trong một bài phát biểu vào năm 1956 rằng Trung Quốc sẽ theo đuổi các công nghệ quốc phòng tiên tiến, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. “Chúng ta không chỉ cần nhiều máy bay và pháo binh hơn, mà còn cần cả bom nguyên tử. Trong thế giới ngày nay, chúng ta không thể thiếu thứ này nếu không muốn bị người khác bắt nạt”, ông nói trong một cuộc họp của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956.
Quyết định này một phần xuất phát từ những thiếu sót về công nghệ của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất bắt đầu vào năm 1954. Nhưng theo giáo sư Zhang, lời cam kết của Moscow trong việc giúp Bắc Kinh phát triển công nghệ hạt nhân cũng đóng một vai trò đáng kể.
Với chiến lược và chính sách quốc gia được thiết lập, việc tuyển dụng các nhà vật lý hạt nhân như Đặng Gia Tiên và các nhà khoa học khác đã sớm được tiến hành. Các viện nghiên cứu được thành lập và các cơ sở được xây dựng, bao gồm lò phản ứng nước nặng và máy gia tốc cyclotron đầu tiên của đất nước. Các mỏ uranium ở các tỉnh Giang Tây và Hồ Nam cũng đã đi vào hoạt động.
Nhưng trong vòng vài năm, quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow đã trở nên xấu đi và Liên Xô đã dừng viện trợ, rút các chuyên gia hạt nhân của họ khỏi Trung Quốc. Đó là tháng 6/1959, và đột nhiên người Trung Quốc phải tự mình tiếp tục. Họ đặt tên cho chương trình bom nguyên tử độc lập của mình là “Dự án 596 ”.
Cam kết “không sử dụng trước”
Vài giờ sau khi thiết bị nguyên tử được thử nghiệm vào ngày 16/10/1964, Chính phủ Trung Quốc ngay lập tức tuyên bố chính sách "không sử dụng vũ khí hạt nhân trước", rằng "sẽ không bao giờ, bất cứ lúc nào hoặc trong bất kỳ hoàn cảnh nào, là nước đầu tiên sử dụng vũ khí hạt nhân".
Bắc Kinh sau đó nói thêm rằng họ đã cam kết "vô điều kiện không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại các quốc gia không có vũ khí hạt nhân hoặc các khu vực không có vũ khí hạt nhân" và bắt đầu thúc giục 4 cường quốc hạt nhân khác vào thời điểm đó cam kết "không sử dụng vũ khí hạt nhân trước".
Bất chấp những thách thức, các nhà nghiên cứu Trung Quốc vẫn tiếp tục. Cuộc thử nghiệm bay đầy đủ đầu tiên của tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-5 được tiến hành vào tháng 5/1980. Cuộc thử nghiệm hạt nhân trong khí quyển cuối cùng được thực hiện vào tháng 10 năm đó.
Tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm (SLBM) JL-1 được thử nghiệm vào năm 1982; và vào năm 1983, Type 092 SSBN - tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên và duy nhất của Trung Quốc có khả năng bắn SLBM vào thời điểm đó - đã được đưa vào biên chế.
Sau đó, vào năm 1985, người kế nhiệm Chủ tịch Mao Trạch Đông là ông Đặng Tiểu Bình đã cắt giảm một triệu quân của Quân đội Giải phóng Nhân dân, trong một động thái chuyển hướng lớn sang phát triển kinh tế.
Nhà sử học Zhang Jing cho biết: “Một trong những lý do quan trọng khiến chính sách cải cách và mở cửa của Trung Quốc thành công là sự đảm bảo an ninh và sự tự tin mà năng lực hạt nhân mang lại cho Trung Quốc với tư cách là một cường quốc có trách nhiệm”.
Thành tựu kinh tế giúp nâng cao năng lực hạt nhân
Khi cuộc cắt giảm hàng loạt đang diễn ra, Chủ tịch Đặng Tiểu Bình đã nhắn nhủ quân đội nên "kiên nhẫn trong vài năm".
“Tôi thấy rằng vào cuối thế kỷ này, chúng ta chắc chắn sẽ vượt qua mục tiêu tăng gấp bốn lần [GDP] và đến lúc đó, chúng ta sẽ mạnh hơn về mặt tài chính và có thể chi một khoản tiền tương đối lớn để hiện đại hóa trang thiết bị quân sự của mình”, ông Đặng Tiểu Bình hứa.
Trong những “năm kiên nhẫn”, nhiều chương trình quốc phòng lớn đã bị hủy bỏ hoặc đình chỉ. Nhưng vào thời điểm Trung Quốc tham gia Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện năm 1996, quốc gia này đã tiến hành tổng cộng 45 cuộc thử hạt nhân vật lý.
Dựa trên các thí nghiệm đó, các nhà khoa học Trung Quốc đã hoàn thành việc chế tạo vũ khí neutron vào năm 1988, xác nhận sở hữu một quả bom khinh khí thu nhỏ vào năm 1999, chế tạo tên lửa đạn đạo có khả năng mang đầu đạn hạt nhân bằng nhiên liệu rắn - DF-21 và DF-31 - cũng như SLBM JL-2, và cuối cùng đã triển khai năng lực hạt nhân trên biển với tên lửa JL-1A trên tàu ngầm Type 092.
Đến năm 1999, như ông Đặng Tiểu Bình đã dự đoán, nền kinh tế Trung Quốc đã bùng nổ và ngân sách quân sự bắt đầu tăng vọt. Phần lớn số tiền đã được chi cho các năng lực vũ trang thông thường.
Trung Quốc duy trì "chính sách hạt nhân tối thiểu", nhưng kho vũ khí hạt nhân của nước này đã được tăng cường đáng kể nhờ vào việc đưa vào sử dụng tàu ngầm hạt nhân tấn công Type 094 mới, tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm JL-3 mới, tên lửa DF-5C, tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cơ động trên đường DF-31AG và DF-41, tên lửa đạn đạo tầm trung - xa có khả năng mang vũ khí hạt nhân DF-21D/26 và tên lửa siêu thanh DF-17, cũng như máy bay ném bom chiến lược có khả năng mang vũ khí hạt nhân được cải tiến từ nền tảng H-6.
Theo ước tính của Lầu Năm Góc vào năm ngoái, tính đến tháng 5 năm 2023, Trung Quốc sở hữu hơn 500 đầu đạn hạt nhân đang hoạt động, có thể sẽ có hơn 1.000 đầu đạn hạt nhân đang hoạt động vào năm 2030 và sẽ tiếp tục gia tăng con số đó cho đến năm 2035, tạo nên kho vũ khí hạt nhân tương đương với Mỹ và Nga.
Báo cáo Sức mạnh Quân sự Trung Quốc năm 2023 cho biết: "So với những nỗ lực hiện đại hóa hạt nhân của quân đội Trung Quốc một thập kỷ trước, những nỗ lực hiện tại đã vượt trội những nỗ lực trước đây về cả quy mô và độ phức tạp".