AI sẽ đóng góp đến 130 tỷ USD cho Việt Nam vào năm 2040

Ngày 12/6, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) phối hợp Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và tập đoàn tư vấn Boston Consulting Group (BCG) công bố báo cáo 'Nền kinh tế AI Việt Nam 2025'.

Theo báo cáo, đến năm 2040, AI có thể đóng góp từ 120-130 tỷ USD cho GDP của Việt Nam. Con số này bao gồm khoảng 45-55 tỷ USD từ tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ tích hợp AI và 60-75 tỷ USD từ lợi ích năng suất thông qua tự động hóa và ra quyết định dựa trên dữ liệu.

Việt Nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế số phát triển nhanh nhất Đông Nam Á với tốc độ tăng trưởng khoảng 20% mỗi năm. Tinh thần cởi mở với công nghệ của người dân cũng rất cao, khoảng 75% người Việt Nam bày tỏ sự hào hứng về công nghệ, tỷ lệ này vượt xa nhiều quốc gia phát triển như Mỹ, Canada, Pháp…

Trong khối doanh nghiệp, quá trình ứng dụng AI đang dần được thúc đẩy, khi cả ban lãnh đạo và đội ngũ vận hành đều tận dụng các công cụ AI để cải thiện hiệu quả và hỗ trợ ra quyết định.

AI sẽ đóng góp 120 - 130 tỷ USD cho Việt Nam vào năm 2040. Ảnh minh họa: Hà Anh/Mekong ASEAN.

AI sẽ đóng góp 120 - 130 tỷ USD cho Việt Nam vào năm 2040. Ảnh minh họa: Hà Anh/Mekong ASEAN.

Tầm nhìn đến năm 2030, AI được kỳ vọng là một trong những ưu tiên chiến lược, định vị Việt Nam vào Top 4 quốc gia dẫn đầu về AI trong khu vực và Top 5 toàn cầu. Việt Nam cũng đặt mục tiêu sở hữu 10 thương hiệu về AI nổi tiếng trong khu vực, 3 trung tâm dữ liệu quốc gia với 50 tập dữ liệu mở, 2 trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia và 10 viện nghiên cứu AI với ít nhất một viện đứng Top 20 ASEAN.

Phát biểu tại sự kiện công bố báo cáo, ông Arnaud Ginolin, Tổng giám đốc Boston Consulting Group Việt Nam cho biết, nền kinh tế AI của Việt Nam dựa trên 6 trụ cột chính gồm chiến lược quốc gia, các ứng dụng AI, hệ sinh thái khởi nghiệp, nhân tài AI và nghiên cứu & phát triển (R&D), nhận thức cộng đồng và hạ tầng dữ liệu - điện toán.

Vị chuyên gia này cũng chỉ ra một số thách thức mà nền kinh tế AI Việt Nam phải đối mặt. Đó là thiếu mô hình tài chính bền vững, năng lực nhân sự chưa đồng đều và khoảng cách giữa chính sách và thực thi ở cấp địa phương.

Theo ông Ginolin, hạ tầng điện toán cũng là điểm nghẽn lớn. Nhiều trường đại học và startup gặp khó khăn trong việc tiếp cận thiết bị điện toán hiệu năng cao như siêu máy tính hoặc bộ xử lý đồ họa chuyên dụng (GPU), do chi phí cao và quy trình nhập khẩu phức tạp.

Việt Nam cần một khung pháp lý cho AI như thế nào?

Theo báo cáo, Việt Nam đang hoàn thiện khung pháp lý cho AI với nhiều văn bản quan trọng như Luật Dữ liệu số 60/2024/QH15, Nghị định số 47/2024/NĐ-CP về cơ sở dữ liệu quốc gia, Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân và Chiến lược AI quốc gia theo Quyết định 127/QĐ-TTg. Việt Nam cũng gia nhập Quy trình AI Hiroshima, một sáng kiến hợp tác quốc tế về quản trị AI toàn diện vào cuối năm 2024.

Tuy nhiên, các quy định dành riêng cho AI như một số hướng dẫn cụ thể về đạo đức AI, khung quản lý rủi ro và thể chế thử nghiệm (sandbox) vẫn đang trong quá trình xây dựng.

Các diễn giả tham gia tọa đàm trong khuôn khổ lễ công bố báo cáo "Nền kinh tế AI Việt Nam 2025" diễn ra ngày 12/6. Ảnh: Hà Anh/Mekong ASEAN.

Các diễn giả tham gia tọa đàm trong khuôn khổ lễ công bố báo cáo "Nền kinh tế AI Việt Nam 2025" diễn ra ngày 12/6. Ảnh: Hà Anh/Mekong ASEAN.

Tại cuộc tọa đàm trong khuôn khổ lễ công bố báo cáo, khi bàn về việc ban hành khung pháp lý cho AI, ông Nguyễn Hoàng Hưng, Giám đốc công nghệ của Trung tâm dịch vụ dữ liệu và trí tuệ nhân tạo Viettel AI nhận định, hiện nay là thời điểm thích hợp để Việt Nam xây dựng một hệ thống quy định pháp lý dành riêng cho AI.

“Đạo luật này cần đạt được sự cân bằng giữa hai mục tiêu, đó là tạo điều kiện cho công nghệ AI phát triển và đồng thời hạn chế được những tác động tiêu cực mà AI có thể gây ra. Chúng ta có thể học tập kinh nghiệm quốc tế để xây dựng một đạo luật về AI phù hợp, mang tính đặc thù cho Việt Nam,” ông Hưng nói.

Chia sẻ thêm quan điểm về vấn đề này, PGS.TS Nguyễn Phi Lê, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế về trí tuệ nhân tạo (Đại học Bách khoa Hà Nội) cho rằng, trước khi ban hành luật về AI, Việt Nam cần nhìn nhận rõ ràng trình độ phát triển AI hiện tại ở đâu so với thế giới.

“Việc ban hành luật chắc chắn sẽ giúp hạn chế những rủi ro tiềm ẩn từ công nghệ, nhưng ngược lại, nếu luật được thiết kế quá chặt chẽ, nó có thể trở thành lực cản cho chính sự phát triển. Những quy định hạn chế, nếu không được cân nhắc kỹ, sẽ khiến việc ứng dụng và triển khai AI gặp nhiều khó khăn,” bà Lê giải thích.

Từ khía cạnh quốc tế, ông Nagano Yushi, Giám đốc Trung tâm chuyển đổi số JICA DXLab đồng tình rằng việc đặt ra nguyên tắc trách nhiệm trong phát triển AI ngay từ đầu là cần thiết, song cũng là một vấn đề phức tạp.

Ông Yushi nêu thực tế, các quốc gia đang đứng giữa hai cách tiếp cận, một bên là "luật cứng" như ở châu Âu, với những quy định chặt chẽ, chi tiết và có tính ràng buộc cao; bên còn lại là "luật mềm", tức một khuôn khổ, các hướng dẫn linh hoạt do các chuyên gia dẫn dắt.

Nhật Bản và nhiều nền kinh tế mới nổi đang đi theo hướng thứ hai. Đây là lựa chọn phù hợp hơn trong giai đoạn hiện tại, khi công nghệ còn biến động và cần không gian để thử nghiệm, phát triển.

Chính sự linh hoạt đó không chỉ giúp thúc đẩy đổi mới mà còn là nền tảng để xây dựng lòng tin từ cộng đồng quốc tế. “Điều quan trọng lúc này là phải thu hút đầu tư và hợp tác quốc tế. Khi thế giới thấy Việt Nam thực sự có một khuôn khổ về AI có trách nhiệm, họ sẽ thấy Việt Nam là một điểm đến đáng tin cậy,” ông nhận định.

Để làm được điều đó, theo ông Yushi, cần có sự đối thoại đa chiều, giữa Chính phủ với giới học thuật, doanh nghiệp, quỹ đầu tư và cộng đồng khởi nghiệp. Đây là một cách tiếp cận rất thực tế, vừa hiểu được quan điểm của các bên trong ngành, vừa đảm bảo rằng khuôn khổ pháp lý vẫn tạo điều kiện cho đổi mới.

Hà Anh

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/ai-se-dong-gop-den-130-ty-usd-cho-viet-nam-vao-nam-2040-42582.html