Ánh sáng trên bản Mông Nậm Ty
Dự án điện Nậm Ty minh chứng cho nỗ lực vượt khó của ngành Công Thương Điện Biên, mang ánh sáng về bản Mông, tiếp sức doanh nghiệp và đổi thay cuộc sống.
Từ trung tâm tỉnh Điện Biên, chúng tôi xuôi theo hướng đèo Cò Chạy, qua những cánh rừng cao su xanh thẳm trải dài bất tận. Nắng cuối thu như rắc mật xuống những tán lá, khiến bầu trời Tây Bắc thêm trong veo, dịu mát. Con đường đất đỏ dẫn lối, hai bên là những hàng cao su thẳng tắp - biểu tượng của sức sống mới đang trỗi dậy nơi vùng đất biên viễn.

Điện về Nhà máy chế biến mủ cao su Điện Biên.
Xe chạy gần 20km, trước mắt chúng tôi hiện ra công trình Nhà máy chế biến mủ cao su Điện Biên nằm trên khu đất rộng 2,5 ha (xã Thanh Nưa). Âm thanh của tiếng lắp đặt máy móc, tiếng thợ kỹ thuật đang gấp rút hoàn thành làm rộn ràng thêm không khí của công trường. Đó là hình ảnh của một Điện Biên đang chuyển mình, khởi sắc, thắp sáng niềm tin.
Điện về, doanh nghiệp thêm sức bật
“Nhờ có điện, mọi thứ thay đổi rất nhanh,” anh Đỗ Minh Tú, Trưởng phòng Kế hoạch - Kinh doanh Công ty Cổ phần Cao su Điện Biên nói khi dẫn chúng tôi đi giữa khu nhà xưởng đang hoàn thiện và khu Trạm biến áp. Anh chia sẻ: “Từ thi công đến lắp đặt đều thuận lợi. Nhà máy có điện, tới đây công nhân có việc làm, còn bà con quanh vùng cũng thoát khỏi cảnh tối tăm".

Công ty Cổ phần cao su Điện Biên tạo việc làm cho lao động địa phương hai bản Nậm Ty 1, Nậm Ty 2.
Được biết, dự án Nhà máy chế biến mủ cao su Điện Biên có tổng vốn đầu tư 60 tỷ đồng, khởi công tháng 3/2025. Chỉ trong vài tháng, nhờ có điện lưới quốc gia được cấp tới tận nơi, tiến độ thi công tăng tốc thần kỳ, đến nay đã đạt 90% tiến độ, dự kiến tháng 12/2025 sẽ vận hành chính thức.
Anh Nguyễn Công Tám, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần cao su Điện Biên vẫn nhớ như in những ngày đầu triển khai: “Khi biết có chủ trương đưa điện vào bản Nậm Ty 1 và 2, chúng tôi lập tức đẩy nhanh tiến độ xây dựng. Đường dây điện đi qua vùng trồng cao su của công ty lại vào thời điểm mùa mưa, rất nhiều khó khăn. Nhưng nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp, chính quyền địa phương và đặc biệt là ngành Công Thương của tỉnh, mọi trở ngại đều được tháo gỡ”.

Nhà máy chế biến mủ cao su Điện Biên dự kiến đi vào hoạt động trong tháng 12/2025 với công suất 5.000 tấn/năm.
Để có điện, nhiều vườn cao su phải tạm thanh lý, công ty đã báo cáo Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam xin chủ trương, đồng thời làm việc với chính quyền địa phương để đảm bảo tiến độ. Anh Tám kể: “Đích thân Giám đốc Sở Công Thương Vũ Hồng Sơn đã trực tiếp chỉ đạo từng hạng mục. Trong vòng 10 tháng, đường điện đã hoàn thành. Khi dòng điện đầu tiên thắp sáng, không chỉ nhà máy mà cả bản Mông cũng hân hoan như có hội”.
Anh cũng chia sẻ thêm: “Nhà máy có công suất 5.000 tấn/năm. Từ nay, sản phẩm mủ cao su tại đây và cả vùng biên giới Mường Nhé sẽ được thu mua và chế biến tại nhà máy. Tại bản Nậm Ty 1, Nậm Ty 2, nhà máy sẽ tạo điều kiện tuyển 60 lao động tại địa phương. Hiện, trong bản cũng đã có 70 lao động phục vụ việc khai thác mủ. Khi dự án hoàn thành, công ty sẽ đầu tư đường bê tông vào nhà máy, góp phần cải thiện hạ tầng, giao thông đi lại thuận lợi cho bà con”.

Điện về bản không chỉ thắp sáng dây chuyền sản xuất, mà còn “đánh thức” tiềm năng công nghiệp của vùng đất từng lặng lẽ này.
Điện về bản không chỉ thắp sáng dây chuyền sản xuất, mà còn “đánh thức” tiềm năng công nghiệp của vùng đất từng lặng lẽ này. Sự phối hợp giữa doanh nghiệp và ngành Công Thương tỉnh Điện Biên đã tạo nên một cú hích mạnh mẽ - vừa giúp phát triển kinh tế, vừa đảm bảo an sinh xã hội, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa nông thôn miền núi.
Ánh sáng mang niềm vui cho người dân bản Mông
Từ nhà máy, chúng tôi tiếp tục vào sâu trong bản Nậm Ty 2, xã Thanh Nưa gần 15 km. Con đường đất đỏ quanh co nhưng phía trước là niềm vui của những con người đã từng bao ngày chờ “ánh sáng” khiến chúng tôi dường như quên đi sự mệt nhọc.

Ánh sáng điện về với bản Mông, xã Thanh Nưa, tỉnh Điện Biên.
Trưởng bản Ly A Dơ đón chúng tôi bằng nụ cười rạng rỡ: “Từ ngày có điện, bản vui lắm! Nhà nào cũng sáng đèn, trẻ con học bài buổi tối, nhiều hộ có thể mua sắm và dùng máy giặt, máy xay sát, tủ lạnh. Trước đây, trời tối là cả bản im lìm, giờ thì khác hẳn”.
Bản Nậm Ty 2 có 73 hộ, 435 nhân khẩu, 100% là đồng bào người Mông. Trước kia, cuộc sống gắn liền với đèn dầu và bếp củi. Hơn hai tháng trở lại đây, từ khi có điện, mọi thứ đã đổi thay kỳ diệu: Tiếng máy xay, tiếng quạt rộn rã - âm thanh của một bản làng đang bước vào nhịp sống mới.
Anh Vừ A Dế, công nhân khai thác mủ cao su hơn 17 năm, hồ hởi chia sẻ: “Từ khi có điện, sinh hoạt của chúng tôi rất thuận tiện, tiết kiệm thời gian. Con tôi học chăm hơn vì có ánh sáng, nhà thì có tủ lạnh để bảo quản thức ăn. Điện khiến chúng tôi tin rằng, cuộc sống sẽ còn tốt hơn nữa".

Anh Ly A Sùng (bản Nậm Ty 2) vui mừng bên chiếc tủ lạnh gia đình mới sắm khi có điện.
Cùng chúng tôi dừng chân tại nhà anh Ly A Sùng. Anh Sùng chia sẻ: “Điện về bản chẳng khác nào như có mùa xuân mới. Chúng tôi biết ơn Đảng, Nhà nước, tỉnh và đặc biệt là ngành Công Thương đã mang “ánh sáng” đến với người Mông chúng tôi”.
Ánh điện đã làm thay đổi cả những điều tưởng như nhỏ bé nhất. Các thầy, cô giáo không còn phải gùi nước suối về trường, trẻ em được học dưới ánh sáng của điện. Phụ nữ Mông giờ có thêm thời gian nghỉ ngơi sau ngày dài làm nương...
Ngành Công Thương Điện Biên đưa điện lên non
Trở lại trung tâm tỉnh, chúng tôi gặp ông Vũ Hồng Sơn, Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Điện Biên, người trực tiếp chỉ đạo triển khai dự án điện Nậm Ty. Ông chia sẻ với giọng trầm ấm nhưng ánh mắt đầy tự hào:
“Nậm Ty 1 và Nậm Ty 2 là hai bản giáp biên giới Lào, xa xôi và khó khăn. Khi có chủ trương đưa điện về, chúng tôi xác định đây không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn, mà là trách nhiệm chính trị, tình cảm với đồng bào nơi biên giới. Ngành Công Thương đã huy động mọi lực lượng, phối hợp với các đơn vị thi công, doanh nghiệp, chính quyền địa phương để hoàn thành trong thời gian ngắn nhất".
Theo ông Sơn, dự án được khởi công tháng 10/2024, hoàn thành tháng 8/2025 - một “kỷ lục” với địa hình hiểm trở và thời tiết khắc nghiệt. Bản Nậm Ty 1 có trạm biến áp 75 kVA, 1,25 km đường dây 35 kV và 1,6 km đường dây hạ thế, cấp điện cho 113 hộ. Bản Nậm Ty 2 có trạm 50 kVA, 9,6 km đường dây 35 kV, 4,7 km đường dây 0,4 kV, cấp điện cho 71 hộ dân.
“Chúng tôi coi đây là một công trình của lòng dân,” ông Sơn nói tiếp. “Khi ánh sáng đến từng mái nhà, tôi nhìn thấy niềm vui, nước mắt hạnh phúc của bà con. Đó là phần thưởng lớn nhất cho những người làm điện”.

Điện về bản phục vụ đời sống sản xuất, sinh hoạt hằng ngày, giúp bà con trong bản Nậm Ty 1, Nậm Ty 2 rút ngắn trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Dự án điện Nậm Ty không chỉ đơn thuần là công trình hạ tầng, mà còn là minh chứng sinh động cho tinh thần vượt khó, vì dân phục vụ của ngành Công Thương Điện Biên. Giữa địa hình hiểm trở, đường đèo núi quanh co, đội ngũ cán bộ, kỹ thuật, nhân viên từng ngày đêm bám công trường, chở từng mét dây, đưa từng cột điện lên dốc. Dù nắng, mưa hay đất lở, họ vẫn kiên trì và vượt qua mọi thử thách để mang ánh sáng đến từng bản làng.
Giờ đây, mỗi buổi tối, nhìn ánh điện hắt ra từ những ngôi nhà nhỏ, soi sáng triền núi mờ sương, ai cũng cảm nhận rõ giá trị của sự đổi thay. Điện không chỉ thắp sáng nhà máy, thắp sáng bản làng, mà còn thắp sáng niềm tin, khát vọng vươn lên của người Mông nơi biên cương Tổ quốc.
Với ngành Công Thương Điện Biên, hành trình ấy vẫn chưa dừng lại. Họ đang tiếp tục khảo sát, mở rộng các dự án cấp điện vùng sâu, vùng xa, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau” trên hành trình phát triển năng lượng bền vững.
Nhớ lại phút rời bản Nậm Ty 2, hoàng hôn đã buông xuống. Từng vệt nắng cuối cùng đọng lại trên tán rừng cao su, lấp lánh như những sợi vàng vắt ngang triền núi. Giữa không gian mênh mông ấy, những ánh điện đã bắt đầu sáng trong mỗi nhà. Chúng tôi bỗng thấy lòng mình ấm lại. Giữa đại ngàn Tây Bắc, ánh sáng không chỉ soi rõ từng mái nhà, mà còn soi sáng tình người, soi sáng niềm tin vào một ngày mai tươi đẹp.
Dự án cấp điện Nậm Ty do Sở Công Thương tỉnh Điện Biên chủ trì triển khai, phối hợp với Công ty Cổ phần Cao su Điện Biên, hoàn thành trong thời gian kỷ lục 10 tháng. Công trình không chỉ phục vụ sản xuất, tạo động lực cho doanh nghiệp, mà còn mang lại nguồn sáng văn minh, ấm no cho đồng bào Mông nơi biên giới. Đây là minh chứng sống động cho tinh thần “ngành Công Thương vì dân phục vụ”, góp phần quan trọng trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế vùng Tây Bắc.
Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/anh-sang-tren-ban-mong-nam-ty-426059.html