Áp lực thi cử 'làm khó' việc đưa Tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường
Theo các chuyên gia, có nhiều thách thức cần vượt qua trong lộ trình đưa Tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Trong đó, áp lực thi cử là một trở ngại lớn.
Nói về thực trạng dạy và học tiếng Anh ở các trường phổ thông, ông Đỗ Đức Lân, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Hợp tác phát triển (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam), cho biết nhóm nghiên cứu của viện từng khảo sát tại ba tỉnh, thành trước đây: Tuyên Quang, Sóc Trăng và Hà Nội, với sự tham gia của 960 giáo viên và 1.440 học sinh.
Theo đó, ở khu vực nông thôn, có những nhóm 30-40% học sinh chưa tự tin rằng mình đạt kết quả cơ bản trong việc học Tiếng Anh. “Có thể điểm số trên hồ sơ vẫn tốt nhưng sự tự tin của các em về việc học Tiếng Anh không cao”, ông Lân nói.
Các thầy cô cũng đánh giá: số học sinh vượt chuẩn chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ khoảng 3-4%, ở mức độ Đạt (khoảng 50%), còn lại là Gần Đạt và Chưa Đạt.
Về điều kiện đảm bảo cho việc dạy học tiếng Anh, phần lớn giáo viên (40-50%) cho rằng nhà trường chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu. Tỷ lệ giáo viên đánh giá điều kiện “đáp ứng đầy đủ” chỉ 25-27%.

Ông Đỗ Đức Lân (Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Hợp tác phát triển, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam). Ảnh: Thanh Hùng
Ông Lân cho biết một khảo sát khác với hơn 71.000 học sinh trên toàn quốc về mức độ lo lắng khi kiểm tra tiếng Anh đã chỉ ra thực trạng đáng chú ý. Gần một nửa (49%) cho biết cảm thấy lo lắng cao, trong đó 22% chịu “rất nhiều” áp lực và 27% cảm thấy “nhiều” áp lực. Khoảng 30% có mức lo lắng vừa phải, trong khi chỉ 21% cảm thấy thoải mái khi làm bài kiểm tra và chỉ 6% hầu như không chịu áp lực nào.
Theo nhóm nghiên cứu, chúng ta vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc triển khai dạy và học tiếng Anh, đặc biệt ở bậc mầm non. Thứ nhất là sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng miền và đối tượng. Một số tỉnh chỉ có 2-6% trẻ được tiếp cận với chương trình làm quen tiếng Anh.
Về đội ngũ, chúng ta vẫn thiếu giáo viên có trình độ và chứng chỉ phù hợp, đặc biệt là ở các vùng khó khăn. Đối với giáo viên nước ngoài, việc duy trì ổn định đội ngũ gặp khó khăn do phụ thuộc vào thời hạn visa. Trong khi đó, các cơ sở giáo dục mầm non công lập không có vị trí việc làm của giáo viên tiếng Anh, phải phụ thuộc vào hợp đồng. Khoảng 15% giáo viên tự đánh giá kỹ năng ở mức yếu và tương đối yếu.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị còn hạn chế, nhiều trường phải sử dụng phòng học chung vì thiếu phòng chuyên biệt. Chi phí học tập cũng là một thách thức, với mức học phí dao động từ 50.000 đồng đến 1.350.000 đồng/trẻ/tháng, gây khó khăn cho nhiều gia đình ở khu vực khó khăn.
“Một thách thức khác là việc đánh giá kỹ năng nghe - nói chưa được thực hiện thường xuyên và đồng bộ. Điều này một phần do thiếu cơ sở vật chất và môi trường thực hành. Ngoài ra, áp lực thi cử vẫn đang ảnh hưởng nhiều đến phương pháp học tập, khiến học sinh tập trung nhiều vào kỹ năng đọc - viết mà ít chú trọng đến kỹ năng giao tiếp”, ông Lân nói.
Ông cũng nhấn mạnh rằng trình độ Tiếng Anh của học sinh không đều; một số giáo viên thiếu kỹ năng công nghệ thông tin nên gặp khó trong tìm kiếm và sử dụng học liệu; thời lượng chương trình và sĩ số lớp học đông. Đây đều là những vấn đề cần lưu tâm trong việc thực hiện đưa Tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.

Ông Nguyễn Thế Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông (Bộ GD-ĐT). Ảnh: Thanh Hùng
Ông Nguyễn Thế Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông (Bộ GD-ĐT), cho biết một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đề án là đổi mới phương pháp dạy học và cách thức thi, kiểm tra, đánh giá. Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện các hình thức đánh giá theo hướng đa dạng, linh hoạt và phù hợp với bối cảnh dạy học tiếng Anh hoặc dạy học bằng tiếng Anh, nhằm thúc đẩy việc học diễn ra tự nhiên, thực tiễn và gắn với môi trường sử dụng ngôn ngữ.
Theo tính toán của Bộ GD-ĐT, để triển khai thành công đề án, hệ thống giáo dục cần bổ sung khoảng 12.000 giáo viên tiếng Anh cho bậc mầm non (mỗi cơ sở mầm non có một giáo viên tiếng Anh); gần 10.000 giáo viên tiểu học do chương trình tiếng Anh bắt buộc sẽ được áp dụng từ lớp 1 thay vì lớp 3 như hiện nay. Bên cạnh đó, cần đào tạo, bồi dưỡng năng lực chuyên môn và nghiệp vụ cho ít nhất 200.000 giáo viên để đủ khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh vào năm 2030.
Liên quan đến tình trạng thiếu giáo viên, đặc biệt ở các vùng khó khăn, ông Sơn cho biết Bộ GD-ĐT đã ban hành nhiều hướng dẫn để hỗ trợ địa phương bảo đảm nguồn nhân lực. Các giải pháp gồm quy đổi định mức tiết dạy cho giáo viên; tổ chức dạy liên trường; mở rộng cơ chế, chính sách thu hút giáo viên nước ngoài; huy động đội ngũ giáo viên hợp đồng…
“Bộ sẽ tính toán các giải pháp phù hợp với nhu cầu từng địa phương. Việc triển khai đề án đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học phải thực hiện theo lộ trình, dựa trên điều kiện thực tế. Vì vậy, các địa phương cần cân nhắc kỹ nguồn lực, từ cơ sở vật chất đến đội ngũ giáo viên, để có phương án triển khai phù hợp”, ông Sơn nhấn mạnh.












