Ba chữ 'C' giải quyết điểm nghẽn chuyển đổi giao thông xanh

Trong hành trình chuyển đổi sang giao thông xanh, Hà Nội đang đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay gồm: Chi phí - Cơ sở hạ tầng - Chuyển đổi hành vi.

Chuyển đổi xanh trong giao thông không thể chỉ dựa trên khẩu hiệu hay áp lực dư luận, mà phải đặt trên nền tảng khoa học, dữ liệu và sự phản biện học thuật. Trong hành trình chuyển đổi đó, Hà Nội đang đứng trước nhiều cơ hội – nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với những điểm nghẽn lớn cần được tháo gỡ kịp thời.

Điểm nghẽn lớn nhất hiện nay nằm ở ba chữ "C", gồm: Chi phí – Cơ sở hạ tầng – Chuyển đổi hành vi.

Giải quyết các điểm nghẽn lớn nhất hiện nay nằm ở ba chữ C (Chi phí; Cơ sở hạ tầng và Chuyển đổi hành vi) sẽ giúp Hà Nội chuyển đổi xe máy điện thành công.

Giải quyết các điểm nghẽn lớn nhất hiện nay nằm ở ba chữ C (Chi phí; Cơ sở hạ tầng và Chuyển đổi hành vi) sẽ giúp Hà Nội chuyển đổi xe máy điện thành công.

Chữ C đầu tiên là "Chi phí". Xe máy điện hiện đã có nhiều mức giá, mẫu rẻ nhất chỉ từ 12 triệu đồng. Tuy nhiên, với những hộ gia đình phải thay thế từ 2–3 xe thì tổng chi phí vẫn là gánh nặng tài chính lớn, đặc biệt với người thu nhập thấp vốn quen dùng xe xăng cũ chỉ khoảng 3 –4 triệu đồng. Thị trường xe điện cũ cũng chưa minh bạch và chưa đảm bảo an toàn, làm tăng thêm rào cản tiếp cận.

Chữ C thứ hai là "Cơ sở hạ tầng" khi hiện thành phố thiếu bãi đỗ có ổ sạc, đặc biệt ở các khu nhà trọ, chung cư cũ, nơi tập trung đông người lao động. Hạ tầng sạc hiện chưa được tiêu chuẩn hóa, khiến người dân lo ngại về an toàn cháy nổ và độ tin cậy.

"Chuyển đổi hành vi" là chữ C cuối cùng. Thói quen nạp nhiên liệu nhanh, quãng đường di chuyển dài, lo ngại về độ bền và bảo trì xe điện vẫn còn là rào cản tâm lý.

Để tháo gỡ các điểm nghẽn trên, cần một loạt nghiên cứu và hành động cụ thể, vừa đảm bảo tính khả thi, vừa hỗ trợ người dân thu nhập thấp – nhóm đang phụ thuộc lớn vào xe xăng cũ.

Để giải quyết chuyển đổi hành vi, đầu tiên cần lựa chọn đối tượng và khu vực chuyển đổi.

Hà Nội nên ưu tiên khảo sát các phường nội đô, trung tâm, nơi có mật độ xe máy cao và nhiều tài xế công nghệ hoạt động. Tài xế xe ôm, giao hàng di chuyển 50 - 100km/ngày là nhóm dễ bị ảnh hưởng bởi chi phí vận hành, nhưng cũng có tiềm năng lớn để giảm phát thải. Nghiên cứu có thể mô phỏng mức giảm CO₂ nếu 25% số xe ở khu vực này chuyển sang điện.

Song song, khảo sát kinh tế-xã hội của các hộ gia đình thu nhập thấp để thiết kế chương trình trợ giá trực tiếp (từ 6 triệu đồng/xe), ưu tiên cho nhóm dùng xe xăng cũ dưới 4 triệu đồng.

Kết hợp với đó là truyền thông hướng tới lợi ích dài hạn như chi phí vận hành thấp, sẽ giúp thay đổi nhận thức và hành vi sử dụng phương tiện.

Tiếp đến để giải quyết vấn đề cơ sở hạ tầng, cần phải xây dựng hướng dẫn kỹ thuật trạm sạc. Không thể mở rộng hạ tầng sạc nếu thiếu hành lang pháp lý rõ ràng.

Hà Nội cần chủ động ban hành hướng dẫn kỹ thuật cho trạm sạc xe máy điện đặt tại các khu vực đông dân như nhà trọ, hầm chung cư, bãi gửi xe.

Khung hướng dẫn kỹ thuật này cần đáp ứng đúng nhu cầu thực tiễn về an toàn, minh bạch và dễ triển khai, đặc biệt tại các khu vực như nhà trọ, chung cư, bãi gửi xe công cộng, nơi người dân có nhu cầu sạc điện cao nhưng điều kiện cơ sở hạ tầng còn yếu.

Mục tiêu là tạo hành lang pháp lý rõ ràng để thu hút đầu tư và giảm rủi ro về cháy nổ. Cấu phần chính gồm: Yêu cầu thiết kế trạm sạc công suất 5–7 kW, 10–20 cổng, phù hợp cho không gian đô thị chật hẹp; Các tiêu chuẩn bắt buộc về an toàn điện, phòng cháy chữa cháy, cách ly và bảo trì định kỳ; Tích hợp công nghệ đo đếm điện năng, thanh toán điện tử; Kết nối dữ liệu thời gian thực vào bản đồ trạm sạc của thành phố, giúp người dân dễ tra cứu.

Hướng dẫn này giúp các nhà đầu tư triển khai trạm sạc đồng bộ, an toàn và dễ áp dụng. Khi hạ tầng sạc công cộng được xây dựng đúng tiêu chuẩn và có chính sách ưu đãi rõ ràng, người dân sẽ giảm lo ngại về việc phải sạc xe trong không gian chật hẹp, tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt ở các khu nhà trọ. Điều này sẽ góp phần tạo dựng niềm tin, thúc đẩy hành vi chuyển đổi và thu hút đầu tư tư nhân theo mô hình hợp tác công – tư (PPP).

Cuối cùng để giải quyết đồng thời "chi phí" và "hành vi" cần tiến hành thử nghiệm trạm sạc mẫu tại khu vực cụ thể.

Thành phố cần thiết kế và lắp đặt thử nghiệm một trạm sạc mô-đun tại một hầm chung cư lớn hoặc bãi gửi xe tập trung, phối hợp với các hãng như VinFast hoặc V-Green. Trạm nên có từ 10–15 cổng sạc, sử dụng công nghệ an toàn cao và thanh toán tiện lợi.

Giai đoạn vận hành thử 3–6 tháng có thể miễn phí hoặc trợ giá tiền điện để khuyến khích người dân trải nghiệm. Tuy nhiên, trạm sạc công cộng an toàn mới là giải pháp chính để người dân không còn phải sạc ở nhà, đặc biệt tại các khu nhà trọ tiềm ẩn nguy cơ cháy nổ. Việc này sẽ giúp giảm tâm lý lo sợ, tạo nền tảng cho việc mở rộng hạ tầng sạc tại các đô thị.

Dữ liệu từ giai đoạn thử nghiệm sẽ là cơ sở để điều chỉnh thiết kế, nâng cao tiêu chuẩn và nhân rộng mô hình trên toàn thành phố.

Hà Nội đang đứng trước cơ hội chuyển đổi lớn trong giao thông xanh. Tuy nhiên, để tránh rơi vào "bẫy khẩu hiệu", quá trình này phải được dẫn dắt bằng nghiên cứu khoa học, dữ liệu thực tiễn và phản biện chính sách rõ ràng.

Ba điểm nghẽn "3C" nếu không được tháo gỡ kịp thời, sẽ làm chậm lại hành trình cắt giảm khí nhà kính của đô thị.

Với cách tiếp cận đúng, lựa chọn khu vực ưu tiên, xây dựng khung kỹ thuật, thí điểm mô hình thực tế cùng chính sách trợ giá cho người thu nhập thấp, Hà Nội hoàn toàn có thể đạt mục tiêu 25% xe máy điện vào năm 2030 và trở thành hình mẫu về chuyển đổi công bằng trong giao thông đô thị.

PGS.TS Đàm Hoàng Phúc

Nguồn Xe Giao Thông: https://xe.baoxaydung.vn/ba-chu-c-giai-quyet-diem-nghen-chuyen-doi-giao-thong-xanh-192250730220810212.htm