Ba giải pháp trọng tâm điều hành chính sách tiền tệ năm 2025
Năm 2024, điều hành chính sách tiền tệ khá thành công trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá. Năm 2025, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức 8%, lạm phát ở mức dưới 4,5%. Trong bối cảnh thế giới nhiều biến động khó lường, đặc biệt là diễn biến căng thẳng thương mại giữa Mỹ và các nền kinh tế lớn, Việt Nam rất khó tránh các cú sốc bên ngoài...
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w700_r1/2025_02_11_3_51444329/9f8d01ae35e0dcbe85f1.jpg)
Đầu năm mới, trả lời phỏng vấn Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho rằng điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh hiện nay phải có những giải pháp phù hợp để hoàn thành mục tiêu Chính phủ giao.
Thưa bà, năm 2025 được dự báo là tình hình thế giới, trong nước diễn biến khá phức tạp. Thực tế này tác động đến điều hành chính sách tiền tệ như thế nào?
Năm 2025 được giới phân tích nhận định sẽ có rất nhiều thách thức khi kinh tế toàn cầu vẫn còn nhiều yếu tố bất định và tiềm ẩn rủi ro. Đó là, lạm phát toàn cầu giảm nhưng chưa bền vững và tiềm ẩn rủi ro áp lực tăng trong bối cảnh độ mở của nền kinh tế Việt Nam rất lớn; giá cả hàng hóa thế giới biến động phức tạp do tác động của diễn biến địa chính trị phức tạp, xu hướng gia tăng về an ninh lương thực tại các quốc gia, tác động của thiên tai, thời tiết cực đoan...
Trong bối cảnh đó, các tổ chức quốc tế như IMF, WB, AMRO đều nhận định dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện rất hạn hẹp và khuyến nghị Việt Nam cần tận dụng dư địa tài khóa còn nhiều để hỗ trợ tăng trưởng.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, có thể thấy, mặc dù trong những năm qua, sự thành công trong điều hành chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát đã nâng cao uy tín của Ngân hàng Nhà nước cũng như neo giữ kỳ vọng lạm phát tương đối vững chắc nhưng rủi ro lạm phát năm 2025 là không thể chủ quan, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều bất định. Việc đánh giá thấp rủi ro lạm phát, dẫn đến phản ứng chậm trong chính sách tiền tệ có thể dẫn đến hệ quả, tác động tiêu cực lên các hoạt động kinh tế.
Theo đó, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 như Quốc hội, Chính phủ đề ra, cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để hướng tới phát triển kinh tế bền vững, hài hòa các mục tiêu kinh tế vĩ mô, đảm bảo giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế.
Trước những nhận định nêu trên, mục tiêu điều hành của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2025 là gì, thưa bà?
Trong bối cảnh đó, công tác điều hành chính sách tiền tệ năm 2025 của Ngân hàng Nhà nước sẽ tập trung vào một số giải pháp trọng tâm, cơ bản. Một là, tiếp tục theo dõi sát diễn biến, tình hình kinh tế thế giới, trong nước để điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm hỗ trợ ưu tiên tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đồng thời góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Hai là, điều hành các công cụ chính sách tiền tệ linh hoạt, bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống tổ chức tín dụng. Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ. Ba là, tiếp tục thực hiện các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Thưa bà, năm 2025, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức 8% để làm cơ sở cho tăng trưởng 2 con số ở các năm tiếp theo. Trong bối cảnh nền kinh tế thâm dụng tín dụng quá lớn, bà nói gì về phân bổ tín dụng trong năm nay?
Việt Nam hiện đang có tỷ lệ tín dụng/GDP ở nhóm nước cao nhất thế giới và đã nhận được nhiều cảnh báo từ Ngân hàng Thế giới (WB). Cùng đó, các tổ chức quốc tế như IMF, WB, AMRO đều nhận định dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện rất hạn hẹp và khuyến nghị Việt Nam cần tận dụng dư địa tài khóa còn nhiều để hỗ trợ tăng trưởng.
Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng kênh vốn này vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; cùng đó, triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù đối với một số ngành, lĩnh vực theo chủ trương, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước sẽ kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Qua đó, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Chính phủ đã giao cho Ngân hàng Nhà nước.
Thưa bà, tại phiên trả lời chất vấn trước Quốc hội vào tháng 11/2024, Thống đốc cho biết rủi ro nền kinh tế đang ở mức cao tạo áp lực nợ xấu với các tổ chức tín dụng, dẫn đến khó giảm lãi suất cho vay. Thống đốc dự báo mặt bằng rủi ro trong năm 2025 ở mức độ nào?
Nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đến từ nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, kinh tế trong nước bị ảnh hưởng bởi những biến động tiêu cực của tình hình thế giới, các ngành sản xuất trong nước nói chung vẫn gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, thị trường chứng khoán, trái phiếu có dấu hiệu cải thiện nhưng tốc độ phục hồi còn chậm do chịu tác động mạnh; thị trường bất động sản sau thời gian phát triển nóng đã bộc lộ những tồn tại và tiềm ẩn rủi ro.
Thứ ba, hệ thống pháp luật còn bất cập, nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai, phá sản, giải thể doanh nghiệp, thi hành án dân sự và cơ chế thực thi pháp luật; thiếu các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia xử lý tài sản bảo đảm và mua bán nợ xấu; thị trường mua bán nợ chưa phát triển như kỳ vọng...
Thứ tư, khách hàng vay có tình hình tài chính kém lành mạnh hoặc kinh doanh thua lỗ, sử dụng vốn vay sai mục đích và phương án đầu tư, kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến không trả được nợ vay tổ chức tín dụng.
Thứ năm, ở một số đơn vị, năng lực quản trị còn nhiều bất cập so với quy mô, tốc độ tăng trưởng tín dụng và mức độ rủi ro; công tác thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng có chất lượng chưa cao.
Từ thực tế đó, trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các đơn vị trong hệ thống thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo về hoạt động tiền tệ, tín dụng, các quy định về cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo đảm an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ.
Song song, chúng tôi luôn yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh, hạn chế nợ xấu gia tăng và phát sinh, đảm bảo an toàn hoạt động. Đồng thời, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực là động lực tăng trưởng kinh tế; kiểm soát chặt chẽ đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Từ 1/7/2024, Luật Các tổ chức tín dụng 2024 có hiệu lực, bộ luật này có ý nghĩa như thế nào trong việc xử lý nợ xấu, thưa bà?
Với những quy định mới trong Luật Các tổ chức tín dụng 2024, việc xử lý nợ xấu được kỳ vọng sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện các giải pháp tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và triển khai các chương trình, chính sách tín dụng đặc thù đối với một số ngành, lĩnh vực theo chủ trương, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng (...)
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 6-20245 phát hành ngày 10/02/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w700_r1/2025_02_11_3_51444329/24b48197b5d95c8705c8.jpg)