Bác Hồ và yêu cầu về tính chính xác, chân thực của báo chí
Gần 60 năm hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã tổ chức và viết cho nhiều tờ báo, bằng nhiều thứ tiếng. Song có một điều thống nhất trong tư tưởng của Bác: Báo chí phải chân thật, chính xác, nhà báo phải là nhân chứng tin cậy của lịch sử!

Hồ Chí Minh đã nhiều lần vạch trần sự giả dối của báo chí tư sản, những tờ báo “ru ngủ nhân dân, chia rẽ nhân dân, làm cho nhân dân mất chí khí phấn đấu, mất tinh thần đoàn kết giai cấp”, “những tờ báo giật gân”, báo nói về ái tình, báo chuyên về lôi chuyện bí mật của những người có tiền ra để tống tiền v.v... Tất cả những báo ấy đều phục vụ lợi ích của giai cấp bóc lột”. Báo chí trong chế độ thuộc địa còn tồi tệ hơn: “chỉ nói đến chuyện nắng mưa, tán dương những kẻ quyền thế đương thời, kể chuyện vớ vẩn, ca tụng công ơn của nền khai hóa và ru ngủ dân chúng”.
Để báo chí nói đúng sự thật, để nhà báo tạo được sự tin cậy với công chúng, không thể chỉ dựa vào những nỗ lực đơn lẻ mang tính chất cá nhân. Điều quan trọng là hệ tư tưởng, ý thức giai cấp và thể chế chính trị có cho phép nhà báo thực hiện vai trò nói lên sự thật hay không. Báo chí tư sản và báo chí thuộc địa rõ ràng không đáp ứng được những điều kiện đó.
Hồ Chí Minh học làm báo là để làm cách mạng. Khởi nguồn của sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh là nỗi khát khao tìm ra chân lý và công lý cho dân tộc mình, cho đồng bào mình. Người muốn biết sự thật đằng sau những từ “bình đẳng, tự do, bác ái” mà thực dân Pháp vẫn rêu rao ẩn chứa điều gì. Người luôn biết sự thật và nói lên sự thật về nỗi áp bức đọa đày của dân tộc mình và các dân tộc cùng khổ khác.
Vậy là với nghề báo và với sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã sẵn một ý thức: tìm ra sự thật, để nói lên sự thật. Các dân tộc thuộc địa từ Đông Dương, Ấn Độ, Bắc Phi..., những nơi Người dừng bước, đâu đâu nhân dân cũng khốn khổ, cũng bị đàn áp, bóc lột dã man, bị đối xử tàn tệ không khác gì con vật. Tiếng nói Nguyễn Ái Quốc với 8 yêu sách ở Hội nghị Véc-xây, rồi các bài phát biểu tại các diễn đàn Hội nghị Đảng Cộng sản ở Pari, ở Mát-xcơ-va, các bài báo trên tờ Nhân Đạo, Người cùng khổ... đã làm rõ sự thật về cảnh ngộ tăm tối, khốn cùng của người dân thuộc địa, và bộ mặt tàn bạo, dã man của chủ nghĩa đế quốc - thực dân... Giác Đuycơtô, một nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp nói trong hồi ký của mình: “Nhờ quen biết anh Nguyễn mà tôi hiểu sự thật về chủ nghĩa thực dân Pháp”. Còn Bản án chế độ thực dân Pháp với một kho tư liệu dày dặn, công phu đã khiến cả những tay thực dân khét tiếng như toàn quyền Pôn Đu-me phải thừa nhận là “có giá trị” và “thuyết phục”.
Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc về vị thế dân tộc từ bị áp bức trở thành độc lập, người dân từ nô lệ thành tự do. Báo chí trong chế độ thực dân không được phép nói lên sự thật. Với báo chí cách mạng, chân thật, khách quan là trách nhiệm, là nghĩa vụ, hơn thế, là quyền lợi của một nền báo chí chân chính. Cho nên cũng dễ hiểu khi Hồ Chí Minh đặt ra một yêu cầu về tính chân thực, khách quan của người làm báo bằng những nhắc nhở nghiêm khắc:
“Viết phải thiết thực, “nói có sách, mách có chứng”, từ là nói cái việc ấy ở đâu, thế nào, ngày nào, nó sinh ra thế nào, phát triển thế nào? Kết quả thế nào?”
“Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết.
Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”.
Lời nhắc nhở của Bác về tính chân thực của báo chí có thể gói lại ở hai chữ “có” và “cần”. “Có” là biểu hiện cái tồn tại trong thực tế, là sự kiện đã và đang diễn ra, nóng bỏng, mới mẻ, hấp dẫn, với ngày tháng, với lịch trình phát triển cụ thể. “Nói có sách, mách có chứng”, “có” là cơ sở để phản ánh, là chất liệu hình thành nên tác phẩm báo chí. Song tác phẩm lại có những quy định của nó với kết cấu, dung lượng và chủ đề phản ánh. Vậy là từ cái “có” thực tiễn đó, nhà báo phải tìm được cái “cần”, tức là những chi tiết, sự kiện... phù hợp với chủ đề, phục vụ cho chủ đề đưa vào trong tác phẩm. “Không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”. Tính chân thật, khách quan không đòi hỏi nhà báo phải phản ánh từng chi tiết vặt vãnh, nhỏ lẻ của cuộc sống nếu nó không liên quan đến nội dung chính của tác phẩm. Nhưng nếu là những chi tiết, sự kiện có ích cho nội dung định đề cập thì nhà báo phải thật tỉ mỉ, càng cụ thể, chính xác càng tốt.
“Nói du kích đánh thắng, đánh thắng ngày nào? Thắng cách nào? Giết được bao nhiêu địch, bắt bao nhiêu địch, thu được bao nhiêu súng?... Phải nói rõ ràng, đồng thời chớ lộ bí mật”.
Không nên hiểu Hồ Chí Minh đòi hỏi sự chính xác đến mức tuyệt đối, thể hiện bằng từng số liệu chi li, từng chi tiết vụn vặt. Trong thực tế chiến tranh, trước yêu cầu đảm bảo bí mật, điều đó càng khó thực hiện. Điều Bác quan tâm là sự thuyết phục của thông tin. Đã nói thì phải nói cho đúng, cho trúng, cho đầy đủ, không được tạo cho công chúng sự hoài nghi, mù mờ, khó hiểu. Đây là yêu cầu ngặt nghèo với người làm báo: không đưa ra những kết luận vội vàng, nếu chưa có những căn cứ đầy đủ trong tay.
Tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam năm 1963, Hồ Chí Minh đã “lấy tư cách một đồng chí có ít nhiều kinh nghiệm về báo chí” để “xung phong phê bình các báo”. Trong 7 khuyết điểm Bác nêu ra thì có 2 khuyết điểm liên quan đến “bệnh” thiếu chính xác. Đó là:
- “Thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng các thành tích mà ít hoặc không nói đúng mức nên khó khăn và khuyết điểm của ta”…
- “Đưa tin hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng”.
Ngay trong những thiếu sót được đưa ra để phê bình, Hồ Chí Minh đã nói đến nguyên nhân của việc thông tin không chính xác. Đó là do sự “hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng” và đặc biệt là “bệnh” thành tích mà nói như Bác là “báo cáo giả dối”, “thành công ít thì suýt ra nhiều”, “bệnh” che giấu khuyết điểm. Người nhắc nhở về cách viết:
“Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân tộc ta, của bộ đội ta, của cán bộ ta, của bạn ta. Đồng thời để phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay cái tốt thì phải có chừng mực, chớ phóng đại. Có thế nào, nói thế ấy. Bộ đội và nhân dân ta cũng đủ nhiều cái hay để nêu lên, không cần phải bịa đặt ra”.
“Bộ đội và nhân dân ta cũng đủ nhiều cái hay để nêu lên, không cần phải bịa đặt ra”. Hồ Chí Minh đã đi thẳng vào vấn đề cốt lõi của cách viết, đó là cách nhìn. Cách nhìn của nhà báo vô sản phải là cách nhìn biện chứng, cách nhìn tiếp cận chân lý. Cuộc sống với bao bình diện đa dạng của nó đòi hỏi nhà báo phải phản ánh trung thực cho cán bộ và nhân dân thấy cái tốt để phát huy, thấy cái xấu để sửa chữa. Nền báo chí cách mạng đối lập hẳn với nền báo chí tư sản “ru ngủ nhân dân, chia rẽ nhân dân”, “chuyên lôi chuyện bí mật của người có tiền ra để tống tiền” là ở chỗ đó. “Bộ đội và nhân dân ta cũng đã nhiều cái hay để nêu lên, không cần phải bịa đặt ra”. Đó là cái nhìn sâu sắc bản chất giai cấp, là lời nhắc nhở đầy trách nhiệm về thiên chức nhà báo - người “thư kí” trung thành của lịch sử.
Từ yêu cầu “nói đúng”, “viết đúng”, Hồ Chí Minh đặt ra quan điểm mang tính phương pháp luận của hoạt động báo chí, đó là phải sâu sát thực tiễn. Tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam, Người căn cặn: “Phải đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động”. Bác yêu cầu những người làm công tác báo chí, tuyên truyền: “Gần gũi quần chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực”.

PGS, TS Đỗ Chí Nghĩa.
Người làm báo phải “gần quần chúng”, “đi sâu vào thực tế” để viết cho “thiết thực”, không được “có ít suýt ra nhiều”, “viết ra cái tốt mà giấu cái xấu”. Đây là một quan điểm không chỉ có ý nghĩa bài học nghề nghiệp mà còn có tính chất cách mạng, tính chất giai cấp sâu sắc. Báo chí trong chế độ thực dân - nô lệ không được nói lên sự thật. Đất nước độc lập, báo chí mới có quyền và phải có trách nhiệm nói lên sự thật. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa bản chất tốt đẹp của chế độ và trách nhiệm nghề nghiệp của nhà báo.
Không chỉ là những lời phát biểu có tính chất nhắc nhở, dặn dò, suốt cuộc đời mình, Bác đã nêu một tấm gương sáng về thái độ nghiêm túc, tôn trọng tính chân thực, chính xác của một nhà báo, một nhà cách mạng mẫu mực. Một ví dụ nhỏ, năm 1962, Bác viết bài báo Làm thế nào cho lạc thêm vui? đăng trên báo Nhân Dân, với bút danh T.L. Bài báo có một sai sót nhỏ. Bác đã “đính chính” lại trong một bài viết khác như sau: “Xin lỗi: Trong báo Nhân Dân (14/3/1962), dưới chủ đề “Làm thế nào cho lạc thêm vui” đúng ra là 1 tấn lạc đổi được 1,5 tấn (1 tấn rưỡi) gang. Vì sót một dấu phẩy (,) mà viết sai thành 15 (mười lăm) tấn gang. Đó là một thái độ không nghiêm túc, cẩn thận. T.L xin thật thà tự phê bình và xin lỗi các bạn đọc”. Thái độ nghiêm khắc “thật thà tự phê bình” ấy là một bài học sâu sắc cho thế hệ những nhà báo hôm nay.
Tài liệu tham khảo
Hồ Chí Minh – Về vấn đề báo chí, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, 1995
Hồ Chí Minh - Tác giả, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, NXB Giáo dục, 1997
Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh, NXB Lao động, 2001