Bài 2: Tái thiết đất nước

Với tầm nhìn xa, trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự liệu được những mất mát, tổn thất do chiến tranh gây ra, nên Người đã căn dặn: 'Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân'.

Bút tích Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bút tích Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Với tầm nhìn xa, trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự liệu được những mất mát, tổn thất do chiến tranh gây ra, nên Người đã căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Vì vậy, trong kế hoạch xây dựng đất nước ta sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến tất cả thành phần nhân dân.

Trước hết là thực hiện chính sách đền ơn, đáp nghĩa với những người đã khuất và những người đang sống, Bác căn dặn “mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ”. Với những người đang sống - những người “đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình… Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Chính sách an sinh dành cho những người có công với nước, với dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật sâu sắc, cụ thể, vừa lo “nơi ăn, chốn ở”, vừa trù tính đến tương lai của họ.

Chính sách an sinh còn nhắc đến người phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước; là những người nông dân “thắt lưng buộc bụng” thực hiện yêu cầu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, nên “đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để bà con hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.

Đặc biệt trong Di chúc, Bác còn nhắc đến cả những người vốn bị coi là “đáy cùng” của xã hội như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu… Người có cái nhìn rất khoan dung, độ lượng với họ, là “nạn nhân của chế độ cũ”.

Người yêu cầu “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”. Như vậy, trong chính sách xã hội và chiến lược con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đủ mọi lớp người, trong trái tim mênh mông của Người “có chỗ cho tất cả mọi người, không quên sót một ai, và sắp xếp cho mỗi người vị trí chiến đấu cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người về việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt”.

Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khái quát những thành tựu quan trọng, cơ bản của Đảng ta trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử, cụ thể của nước ta.

Từ một lý thuyết khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen, sau Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời, trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của lịch sử nhân loại theo con đường tiến bộ, nhân văn, vì công bằng, hạnh phúc cho con người.

Do những giá trị vô cùng tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách mạng tiền bối nước ta đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội cho Việt Nam, tổ chức và rèn luyện Đảng Cộng sản để lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh, từng bước hiện thực hóa những giá trị đó thành thực tế sinh động trên đất nước ta.

Những giá trị ấy không chỉ được tổng kết về lý luận, mà đã được kiểm chứng bằng chính thực tiễn công cuộc xây dựng, phát triển đất nước của chúng ta. Đó là: “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người”; “sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội”; “một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”; “sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai”; “một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân”. Chính những giá trị đích thực ấy của chủ nghĩa xã hội đã trở thành mục tiêu, định hướng con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn, tin tưởng và đang kiên định thực hiện.

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục nâng cao chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh- nhân tố quan trọng, quyết định thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong từng tổ chức Đảng, mà một trong những giải pháp căn cốt, mang tính đột phá là “đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, gắn với những chỉ dẫn của Người trong Di chúc và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đến Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII, Đảng nhấn mạnh một số nội dung mới, chủ yếu là: mở rộng phạm vi không chỉ xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả xây dựng hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; cùng với ngăn chặn, đẩy lùi thì phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực; bổ sung, làm rõ hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “tiêu cực” sát hợp tình hình mới. Trong đó, nhấn mạnh, sự nguy hiểm của biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh.

Đối với mỗi đảng viên, cán bộ trong thực hiện nhiệm vụ được giao đồng thời là quá trình rèn luyện tư cách, phẩm chất đạo đức, cần xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định động cơ rõ ràng, tránh lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực”; chống “bệnh thành tích”, háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”.

Sự nghiệp đổi mới phát triển nhanh, bền vững đất nước hiện nay càng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có phẩm chất “6 dám” - dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Để thực hiện “6 dám”, đội ngũ đảng viên, cán bộ cần phải coi cuộc đấu tranh chống, quét sạch chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện suy thoái là một bộ phận của đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội: lợi dụng cơ chế, chính sách, môi trường để trục lợi cá nhân, trục lợi cho nhóm lợi ích.

Thông qua đó, ngăn chặn các biểu hiện “cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình. Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành”.

Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là đạo đức hành động, đội ngũ đảng viên, cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân. Biểu hiện cụ thể nhất của đạo đức cách mạng là nói đi đôi với làm, “xắn tay áo làm đi” như lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là yêu cầu từ tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khi Đảng tiếp tục kích hoạt, khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hùng cường.

Việt Đông

Nguồn Tây Ninh: https://baotayninh.vn/bai-2-tai-thiet-dat-nuoc-a146393.html