Bài 3: Ứng phó nguy cơ nhập khẩu lạm phát

Việc giữ ổn định giá các mặt hàng thiết yếu đã giúp kiểm soát lạm phát trong nước thấp hơn mục tiêu đề ra, nhưng các chuyên gia cảnh báo rằng áp lực lạm phát nhập khẩu vẫn hiện hữu, do bối cảnh và chính sách kinh tế thế giới còn diễn biến khó lường.

Phát triển sản xuất và chuỗi cung ứng nội địa đóng vai trò then chốt trong kiểm soát lạm phát nhập khẩu. Ảnh minh họa: H.Dịu

Phát triển sản xuất và chuỗi cung ứng nội địa đóng vai trò then chốt trong kiểm soát lạm phát nhập khẩu. Ảnh minh họa: H.Dịu

Sự bất định từ thị trường quốc tế

Năm 2025, kinh tế toàn cầu tiếp tục đối mặt với những biến động khó lường, tạo ra nhiều thách thức cho việc điều hành giá và kiểm soát lạm phát tại Việt Nam. Các yếu tố như căng thẳng địa chính trị ở một số khu vực và chính sách bảo hộ thương mại của Mỹ dưới nhiệm kỳ Tổng thống Donald Trump đã làm gia tăng nguy cơ lạm phát nhập khẩu. Việt Nam - với độ mở kinh tế lớn - lại càng nhạy cảm hơn với biến động giá hàng hóa quốc tế.

Theo Cục Hải quan (Bộ Tài chính), tính đến hết ngày 15/5/2025, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 155,76 tỷ USD, tăng 17,4%, tương ứng tăng 23,04 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2024. Hàng hóa Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu sản xuất như linh kiện điện tử, sắt thép…, nên nếu giá cả hàng hóa tăng lên thì áp lực lạm phát là rất lớn.

Các chuyên gia Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng, rủi ro lạm phát đến từ cả chi phí đẩy (giá hàng hóa thế giới, chính sách bảo hộ thương mại) và tổng cầu (các biện pháp kích thích tăng trưởng). Tỷ giá cũng sẽ đối diện với áp lực rủi ro cao, chịu nhiều tác động từ chính sách của Mỹ, chênh lệch lãi suất giữa các đồng tiền và tình hình dự trữ ngoại hối…

Đồng quan điểm, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đánh giá, rủi ro địa chính trị, nhất là chiến tranh thương mại - công nghệ, bảo hộ thương mại gia tăng khiến giá cả hàng hóa tăng cao, lạm phát, lãi suất có thể giảm chậm hơn so với dự kiến, từ đó tạo áp lực đối với lạm phát, lãi suất và tỷ giá của Việt Nam.

Báo cáo phân tích kinh tế vĩ mô mới đây của Công ty Chứng khoán VNDirect cũng chỉ rõ, lạm phát bình quân từ đầu năm đến nay đạt 3,2%, thấp hơn đáng kể so với giới hạn đề ra là 4,5-5,0% của Chính phủ, cho thấy áp lực lạm phát hiện đang được kiểm soát tốt.

Tuy nhiên, theo VNDirect, tính đến đầu tháng 5/2025, một số rủi ro dự báo gây áp lực lên lạm phát, như khả năng xung đột Ấn Độ - Pakistan làm gián đoạn chuỗi cung ứng gạo, đặc biệt khi Ấn Độ là nhà xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và Pakistan giữ vị trí thứ tư; EVN điều chỉnh tăng giá bán lẻ điện 4,8%, có hiệu lực từ ngày 10/5/2025, đánh dấu lần điều chỉnh đầu tiên kể từ tháng 10/2024, nhưng việc điều chỉnh này đã được tính toán vào dự báo CPI cả năm.

Nhưng các chuyên gia VNDirect cũng cho rằng, các rủi ro tăng CPI có thể được giảm thiểu một phần nhờ giá dầu thô toàn cầu giảm, đặc biệt sau thỏa thuận gần đây của OPEC+ về việc đẩy nhanh hơn nữa sản lượng dầu trong tháng Sáu, cũng như kỳ vọng rằng giá thịt lợn hơi sẽ hạ nhiệt vào cuối quý II/2025 khi nguồn cung tăng lên.

Giải pháp đa chiều, linh hoạt

Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), chỉ số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 4 tháng đầu năm 2025 tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước. Sức mua phục hồi mạnh mẽ có thể làm tăng áp lực lên nguồn cung hàng hóa, đặc biệt là thực phẩm và xăng dầu, vốn dễ bị ảnh hưởng bởi giá thế giới.

Về tiền tệ, năm 2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16%, tương ứng với khoảng 2,5 triệu tỷ đồng, được bơm vào nền kinh tế, nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8%. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, việc nới lỏng cung tiền để kích thích sản xuất và tiêu dùng được đánh giá có thể tiềm ẩn nguy cơ gây áp lực lên lạm phát nếu không được kiểm soát chặt chẽ.

Với những áp lực lớn từ cả trong và ngoài nước, sự chủ động, linh hoạt và phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ, tài khóa và quản lý giá cả đóng vai trò quan trọng để ứng phó. Điều này cần đến những giải pháp đa chiều, cả ngắn và dài hạn.

Trong đó, giới phân tích cho rằng, Việt Nam cần tăng cường "lá chắn" ngoại hối với việc đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường, nâng cao dòng vốn FDI chất lượng cao, thu hút khách du lịch quốc tế, kiều hối… cũng như kiểm soát chặt giao dịch vàng, ngoại tệ để hạn chế đầu cơ, “chảy máu” ngoại tệ.

Mặt khác, tín dụng cũng cần được điều tiết hợp lý, ưu tiên tín dụng cho lĩnh vực sản xuất, xuất nhập khẩu, hạn chế vào các lĩnh vực rủi ro… Điều quan trọng nhất là phải ổn định giá cả thị trường của các mặt hàng then chốt, tăng cường kiểm tra việc chấp hành các quy định về giá… Đồng thời thúc đẩy giải ngân đầu tư công để nâng cao năng lực sản xuất trong nước, giảm áp lực lên nguồn cung và kiềm chế lạm phát.

Chuyên gia kinh tế PGS.TS. Ngô Trí Long nhấn mạnh, việc phát triển sản xuất và chuỗi cung ứng nội địa đóng vai trò then chốt trong kiểm soát lạm phát nhập khẩu. Theo ông, nếu Việt Nam giảm bớt sự phụ thuộc vào nhập khẩu và nâng cao năng lực sản xuất trong nước, không chỉ góp phần ổn định nguồn cung mà còn hạn chế tác động từ các yếu tố bên ngoài như biến động tỷ giá hay giá cả thế giới.

Nhưng PGS.TS. Ngô Trí Long cho hay, đây là giải pháp mang tính dài hạn, đòi hỏi sự đầu tư bài bản nhằm cải thiện năng suất, tối ưu hóa chuỗi cung ứng và ứng dụng công nghệ hiện đại.

TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV nhận định, các cơ quan quản lý cần nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, bình ổn tỷ giá, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường vàng, đảm bảo an sinh xã hội. Đồng thời cần có lộ trình phù hợp khi tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý; luôn đảm bảo cung ứng đầy đủ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu...

Bình Nam

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/bai-3-ung-pho-nguy-co-nhap-khau-lam-phat.html