Bài học đắt giá từ việc 'lơi lỏng' xuất khẩu nông sản thô

Câu chuyện nghịch lý đang diễn ra ở ngành dừa khi các doanh nghiệp chế biến khốn đốn vì thiếu dừa giữa lúc số lượng lớn dừa nguyên liệu 'chảy máu' ra nước ngoài. Đây cũng là bài học đắt giá chung cho một số ngành hàng nông sản từ việc 'lơi lỏng' xuất khẩu thô với tầm nhìn ngắn hạn và cũng đặt ra dấu hỏi về mặt chính sách.

Ghi nhận trong hạ tuần tháng 6/2025 cho thấy tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện có giá dừa tươi và dừa khô tăng lên mức cao nhất từ trước đến nay. Cụ thể, dừa khô 215.000 đồng/chục, tăng gấp 3 với cùng kỳ năm trước. Còn dừa xiêm xanh bán tại vườn 175-185.000 đồng/chục, trong khi đó giá dừa tươi bán lẻ cũng tăng mạnh ở mức 15.000-17.000 đồng/trái.

Từ nghịch lý ở ngành dừa…

Nhiều nhà vườn ở ĐBSCL cho biết, giá dừa tăng cao do nguồn cung sụt giảm khi nhiều diện tích bị ảnh hưởng bởi hạn mặn những năm trước và sâu bệnh trong giai đoạn trổ buồng. Trong khi đó, các doanh nghiệp (DN) đẩy mạnh thu mua dừa để phục vụ xuất khẩu (XK) thô khiến thị trường dừa càng thêm khan hiếm.

Nghịch lý diễn ra ở ngành dừa khi giá dừa ở mức cao nhưng hàng loạt nhà máy chế biến các sản phẩm từ dừa phục vụ XK đang khốn đốn bởi tình trạng thiếu dừanguyên liệu.

Về yếu tố tăng giá dừa khô, giới phân tích cho rằng kể từ khi XK chính ngạch vào Trung Quốc, dừa khô bị thị trường này hút sạch, khiến giá tăng lên mức 100.0000 đồng/chục.

Điều đáng nói, như lưu ý của ông Cao Bá Ðăng Khoa, Phó chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dừa Việt Nam, vấn đề khá nan giải hiện nay mà ngành dừa đối mặt là giá dừa ở mức cao nhưng hàng loạt nhà máy chế biến các sản phẩm từ dừa phục vụ XK đang khốn đốn bởi tình trạng thiếu dừa trong khi số lượng lớn dừa nguyên liệu được XK thô ra nước ngoài.

Thực tế, theo ông Khao, nguồn nguyên liệu dừa của Việt Nam ngày càng bị “chảy máu” ra nước ngoài khá lớn, làm cho các nhà máy trong nước không đủ dừa chế biến sâu, ảnh hưởng các hợp đồng XK và tạo việc làm cho nhiều công nhân ở các nhà máy.

Như thông tin từ Hiệp hội Dừa tỉnh Bến Tre thì hiện có khoảng 40-50% sản lượng dừa của địa phương được XK dạng thô ra nước ngoài (nhiều nhất là Trung Quốc), từ đó khiến hàng loạt nhà máy chế biến dừa phải giảm công suất hoạt động, thậm chí chạy cầm chừng do thiếu trầm trọng nguyên liệu.

Trong một số hội thảo trước đây của ngành dừa, hiệp hội này từng có đề nghị xem xét lại chính sách XK dừa trái thô, nguyên liệu thô từ dừa. Điều đó cũng nhằm bảo vệ tài nguyên cho công nghiệp chế biến dừa trong nước, nâng giá trị gia tăng từ dừa, tăng kim ngạch XK. Bởi lẽ, với chính sách XK nguyên liệu dừa thô như hiện nay thì mục tiêu kim ngạch XK và các chỉ số sản xuất công nghiệp chế biến từ dừa sẽ khó thành công.

Hiệp hội Dừa tỉnh Bến Tre cũng cho rằng thách thức lớn nhất đã bộc lộ là ngành dừa đang đứng trước tác động của cơ chế thị trường. Như tỉnh Bến Tre đã không ít lần đối mặt với thách thức này, dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý nguồn nguyên liệu, duy trì sự ổn định về giá cả.

Xét về chính sách XK dừa, ông Cao Bá Ðăng Khoa cho rằng nên áp thuế dừa nguyên liệu XK dạng thô chưa qua chế biến như, dừa đã qua công đoạn làm khô mức thuế 5%; dừa còn nguyên sọ mức thuế 5%. Điều này nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu dừa phục vụ chế biến sâu ở các nhà máy trong nước nhằm nâng cao giá trị.

Nên nhắc lại, số liệu XK dừa tính riêng hồi quý 1/2025 đã đạt 51,2 triệu USD (tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2024). Trong khi đó, do thiếu nguyên liệu trong nước nên trong 4 tháng đầu của năm 2025 các DN chế biến đã nhập khẩu số lượng lớn dừa nguyên liệu với kim ngạch 7,2 triệu USD (tăng đến 1.030% cùng kỳ năm 2024).

Như chia sẻ của ông Cao Bá Ðăng Khoa, thời gian qua nhiều DN ở ÐBSCL nhập khẩu dừa nguyên liệu từ Indonesia để sản xuất dù chịu thiệt thòi với các khoản chi phí vận chuyển. Thế nhưng phía Chính phủ Indonesia đang nghiên cứu áp thuế 80% với dừa nguyên liệu XK nhằm ưu tiên nguyên liệu cho các nhà máy trong nước.

...Đến dấu hỏi về mặt chính sách

Không chỉ có Indonesia, các quốc gia như Philippines, Malaysia đang thực hành chính sách cấm XK dừa nguyên liệu nhằm ưu tiên cho DN trong nước sản xuất ổn định. Mặt khác, thời gian qua có nhiều DN sản xuất sản phẩm dừa chế biến sâu ở Ấn Ðộ, Israel, Pakistan và kể cả Thái Lan đã so sánh lợi thế lâu dài về giá dừa nguyên liệu giữa Indonesia và Việt Nam và chuyển sang nhập khẩu dừa nguyên liệu của Việt Nam.

Cho nên đó là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách cần lưu tâm để tránh tiếp tục “chảy máu” XK dừa nguyên liệu khi mà các nhà máy chế biến trong nước ngày càng trở nên khan hiếm dừa nguyên liệu chế biến và phải nhập khẩu ngược.

Có thể thấy đây cũng là bài học đắt giá cho một số ngành hàng nông sản khi vẫn còn tình trạng “lơi lỏng” XK thô. Điển hình như ở ngành hàng sắn, số liệu mới đây cho thấy tính riêng 5 tháng đầu năm 2025, XK sắn và các sản phẩm từ sắn đạt gần 2 triệu tấn, trị giá 601,8 triệu USD, tăng 59,7% về lượng và tăng 7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Trung Quốc tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Hiện nay Việt Nam là nước XK sắn đứng thứ 2 trên thế giới. Điều nên lưu ý là phần lớn hoạt động XK sắn của Việt Nam vẫn là XK thô, tức là sắn tươi hoặc sắn lát, chưa qua nhiều quá trình chế biến sâu.

Trong khi số liệu XK sắn “đẹp như mơ” thì một thực tế khác đó là phần lớn các nhà máy sản xuất tinh bột sắn trong nước đã dừng hoạt động do thiếu nguyên liệu, chỉ một số nhà máy tại Tây Ninh còn hoạt động cầm chừng để thu mua nốt lượng củ sắn tươi còn lại trong khu vực trong cuối vụ 2024 - 2025. Trong bối cảnh nguồn cung giảm, giá tinh bột sắn và sắn lát Việt Nam đang có xu hướng tăng trở lại.

Ở Tây Ninh - nơi có diện tích trồng sắn lớn thứ 2 ở Việt Nam, trong những năm gần đây năm nay nhiều DN chế biến tinh bột sắn ở tỉnh Tây Ninh đang hoạt động cầm chừng, đứng trước nguy cơ phá sản vì không có đủ nguồn nguyên liệu sắn phục vụ cho chế biến. Trong khi đó, XK sắn nguyên liệu vẫn đều đều “chảy mạnh” sang Trung Quốc. Rõ ràng đây là nghịch lý nhưng vẫn chưa có giải pháp ổn thỏa.

Hoặc như ở ngành hồ tiêu. Mặc dù Việt Nam là quốc gia XK hồ tiêu số 1 thế giới (XK chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô), thế nhưng, như từ 1/6 đến 17/6/2025, Việt Nam đã nhập khẩu 3.711 tấn hồ tiêu nguyên liệu, kim ngạch đạt 22,2 triệu USD.

Thực tế là hiện nay mỗi tháng Việt Nam đang phải chi hàng chục triệu USD để nhập khẩu hồ tiêu nhằm phục vụ cho chế biến khi mà nguồn nguyên liệu trong nước ngày càng thiếu hụt nghiêm trọng vì sản lượng và diện tích trồng hồ tiêu suy giảm dần mỗi năm.

Nêu ra một số vấn đề thiếu hụt nguyên liệu từ câu chuyện của ngành dừa cho đến ngành hàng sắn hay hồ tiêu để thấy nếu còn tiếp tục “tầm nhìn ngắn hạn”, chạy theo thành tích XK thô thì sẽ còn nhiều bài học đắt giá cho ngành nông sản Việt. Lẽ đương nhiên, khâu chính sách không thể đứng bên lề trước khúc mắc của các DN chế biến về việc “chảy máu” nông sản thô.

Thế Vinh

Nguồn Vnbusiness: https://vnbusiness.vn//viet-nam/bai-hoc-dat-gia-tu-viec-loi-long-xuat-khau-nong-san-tho-1107676.html