Bản án khách quan tòa tuyên về vụ hai anh em tranh chấp đất tại TP Pleiku, Gia Lai
Tòa án nhân dân TP Pleiku, tỉnh Gia Lai đã đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án 'Tranh chấp quyền sử dụng đất' giữa hai chị em ruột và đưa ra bản án khách quan
Tòa án nhân dân TP Pleiku, tỉnh Gia Lai đã đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa gia đình hai chị em ruột là Võ Thị Thuyên và Võ Ngọc Mười. Ngoài căn cứ giám định tuổi mực “giấy sang nhượng” thì Hội đồng xét xử (HĐXX) còn làm rõ nhiều chứng cứ khác có căn cứ cho việc mua bán đất giữa ông Trụ và ông Mười là có thật. Vì vậy, Tòa tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Mười, bà Thủy.
Sau khi nghiên cứu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trong đó tòa nhận định rằng vào thời điểm năm 2002, ông Võ Ngọc Mười được ông Đỗ Quang Sơn và bà Hoàng Thị Huệ giới thiệu để mua một phần diện tích đất của ông Trần Văn Trụ (117 Âu Dương Lân, tổ 4, phường Tây Sơn, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai) và vào năm 2003 ông Mười có làm nhà tạm để ở trên thửa đất nói trên.
Khi mua bán các bên có viết giấy viết tay với nội dung: “Giấy sang nhượng” nội dung là ông Trần Văn Trụ có sang nhượng lại cho ông Mười, SN 1979, với diện tích là 410m2, số tiền là 8.000.000 đồng. Lô đất có tứ cận: Tây giáp đất ông Tặng; Đông giáp đất bà Đinh Thị Kíp; Nam giáp nghĩa địa; Bắc giáp đường Tôn Thất Thuyết. Giấy được viết và ký vào ngày 02/02/2002 và việc mua bán chuyển nhượng có ông Đỗ Quang Sơn ký làm chứng.
Bị đơn (ông Nguyễn Khắc Hải, bà Võ Thị Thuyên) cho rằng giấy sang nhượng này được ông Võ Ngọc Mười và ông Trần Văn Trụ mới viết mục đích là tạo chứng cứ giả để hợp pháp thửa đất đang tranh chấp nói trên vì qua các buổi làm việc về giải quyết tranh chấp đất đai tại phường bà Thủy và ông Mười không đưa ra giấy sang nhượng này…
Việc bà Thuyên cho rằng giấy sang nhượng là giả mạo là không có căn cứ, đối chiếu với tứ cận mà bà Thủy có thay đổi và đối chiếu với cả hiện trạng đất của bà Thủy đang sử dụng hiện tại thì việc bà Thủy khai đất bà Thủy và ông Mười nhận chuyển nhượng từ ông Trụ và các bên có sự đổi đất cho nhau dẫn đến sự thay đổi về tứ cận là có căn cứ xác đáng.
Theo HĐXX, hộ ông Nguyễn Khắc Hải và bà Võ Thị Thuyên và ông Võ Ngọc Mười và bà Nguyễn Thị Thủy đều chưa đo đạc kiểm tra thông tin nên việc đất thiếu hay đủ đất chưa có cơ sở kiểm chứng, từ đó bà Thuyên cho rằng bà bị thiếu đất và số đất bị thiếu là do vợ chồng ông bà Thủy, Mười chiếm và sử dụng trái phép là của gia đình bà là không có căn cứ xác đáng…
Tại phiên tòa, bà Thuyên khai phần đất dư ra do bà tự khai hoang, thế nhưng các kết luận của UBND thành phố, UBND tỉnh Gia Lai không có đất dư tại khu vực này. HĐXX nhận định, việc bà Thuyền cho rằng có khai phá thêm đất của nghĩa địa nên diện tích đất của bà mới có dư ngoài diện tích nhận chuyển nhượng là hoàn toàn không có căn cứ, từ đó thấy rằng có đủ cơ sở khẳng định ông có bán cho bà Thuyên diện tích đất là 1.184,5m2 theo đúng như sơ đồ kỹ thuật thửa đất năm 1997 mà ông Trụ đã khai báo với cơ quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên, đó chỉ là việc khai báo do chủ đất cũ là ông Tuấn và bà Thiệp đã bán cho ông Trụ và sau đó ông Trụ lại chuyển nhượng cho lại bà Thuyên, các bên hoàn toàn không tiến hành do đạc nên không có cơ sở nào để cho rằng đất của bà Thuyên là đúng với số liệu do ông Trụ đã khai báo và được thể hiện vào hồ sơ kỹ thuật thừa đất năm 1997, nên việc ông Trụ chuyển nhượng cho ông Mười thửa đất 410m2 là nằm ngoài diện tích ông Trụ đã chuyển nhượng cho bà Thuyên là hoàn toàn có căn cứ.
Theo HĐXX, bà Võ Thị Thuyên và ông Nguyễn Khắc Hải có đơn yêu cầu trưng cầu giám định lại tuổi mực đối với “Giấy sang nhượng” đề ngày 02/02/2002 và Giấy sang nhượng hoa màu đề ngày 26/3/2003 tại Phòng Giám định kỹ thuật hình sự Bộ Quốc phòng hoặc tại Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an. Theo yêu cầu của bà Thuyên và ông Hải, Tòa án đã có văn bản yêu cầu gửi việc giám định về tuổi mực, tuy nhiên Bộ Công an và Bộ Quốc Phòng đều đã có văn bản trả lời hiện nay Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an và Phòng Giám định kỹ thuật hình sự Bộ Quốc phòng chưa thực hiện được việc giám định về tuổi mực vì vậy nên yêu cầu của bà Thuyền và ông Hải không có cơ sở thực hiện.
Đối với kết luận giám định của Trung tâm tư vấn, Giám định dân sự thuộc Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã kết luận: “Giấy sang nhượng do nguyên đơn cung cấp được viết vào khoảng thời gian quý 1, 2 năm 2002 với sai số +- 3 tháng, mẫu giấy sang nhượng hoa màu đề ngày 26/3/2002 được viết trong khoảng thời gian tháng 3/2003 với sai số +- 3 tháng".
Bà Thuyên có đơn yêu cầu không dùng kết quả giám định trên để giải quyết vụ án, tuy nhiên qua các chứng cứ mà HĐXX đã đánh giá thì kết quả giám định nói trên là hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ đã được Tòa án thu thập. Vì vậy có cơ sở khẳng định rằng kết quả giám định nói trên là phù hợp với sự thật khách quan của vụ án và kết quả giám định nói trên cũng chỉ góp phần chứng minh sự thật có sự mua bán giữa ông Trần Văn Trụ và ông Võ Ngọc Mười vào thời điểm năm 2002. HĐXX cho biết, ngoài chứng cứ nói trên thì tòa đã phân tích còn những chứng cứ khác có căn cứ cho rằng việc mua bán giữa ông Trần Văn Trụ và ông Võ Ngọc Mười vào năm 2002 là có thật.
Tại phiên tòa, đại diện Viện KSND TP Pleiku cũng đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn công nhận phần đất do bà Thủy, ông Mười đang quản lý là thuộc quyền sở hữu của ông bà Thủy, Mười.
Từ những nhận định đánh giá dựa trên nhiều chứng cứ khách quan, HĐXX thấy rằng có đủ cơ sở khẳng định việc ông Mười đã nhận chuyển nhượng đất của ông Trụ vào thời điểm ngày 02/02/2022 và cùng vợ là bà Thủy sử dụng ổn định diện tích đất nói trên từ năm 2003 cho đến nay là có căn cứ, vì vậy chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tòa tuyên xử, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Ngọc Mười và bà Nguyễn Thị Thủy, ông bà Thủy, Mười được sử dụng diện tích đất 379,2m2, địa chỉ tại 117 Âu Dương Lân, tổ 4, phường Tây Sơn, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai. Ông Mười, bà Thủy được liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Yên Tiến