Bản giao hưởng giữa núi rừng

Giữa điệp trùng non cao Tây Bắc, dòng chảy văn hóa âm thầm chảy lan từ chính tâm hồn, lẽ sống của đồng bào dân tộc Thái. Từ đó kết tinh thành di sản văn học đồ sộ, phong phú, tựa như bản giao hưởng vang vọng qua bao thế hệ, đóng góp vào kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Giá trị kết tinh trong di sản

Văn học dân tộc Thái, với hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết, đã tạo nên một thế giới nghệ thuật đa dạng, phản ánh chân thực và sinh động các khía cạnh đời sống đồng bào. Từ áng sử thi hào hùng kể về công cuộc dựng bản, giữ mường, đến những truyện thơ trữ tình về tình yêu đôi lứa hay những lời ru, điệu khắp (hát) mộc mạc, tất cả thấm đẫm tinh thần nhân văn và vẻ đẹp tâm hồn người Thái.

Theo các nhà nghiên cứu, sử thi và truyện thơ là hai đỉnh cao của văn học cổ truyền dân tộc Thái. Trong đó, Quam tô mương (Chuyện kể bản mường), Chương Han (hay Khủn Chương) và Táy pú xấc là những bộ sử thi tiêu biểu, thể hiện thẩm mỹ anh hùng ca ở mức cao. Người Thái mượn những bộ sử thi này để phản ảnh lịch sử chiến chinh, ca ngợi ý chí anh dũng, tự cường, tinh thần cộng đồng trong chiến đấu, sản xuất và khai phá đất đai của đồng bào.

Kho tàng văn học đồ sộ đã góp phần tạo nên một thế giới nghệ thuật đa dạng, phản ánh chân thực và sinh động các khía cạnh đời sống đồng bào Thái. Nguồn: Saigoneer

Kho tàng văn học đồ sộ đã góp phần tạo nên một thế giới nghệ thuật đa dạng, phản ánh chân thực và sinh động các khía cạnh đời sống đồng bào Thái. Nguồn: Saigoneer

Nếu sử thi mang âm hưởng hùng tráng thì truyện thơ lại là tiếng lòng da diết, là khúc ca về tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc, biểu hiện tâm hồn khoáng đạt, tình cảm. Nói đến thể loại văn học này không thể không nhắc đến Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu) - một kiệt tác truyện thơ đã vượt ra khỏi không gian buôn bản, trở thành viên ngọc quý của văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ là tiếng nói phê phán những hủ tục hôn nhân ép buộc mà còn là sự khẳng định vẻ đẹp của lòng thủy chung, tình yêu.

Câu chuyện tình bi thương nhưng đầy kiêu hãnh của chàng trai và cô gái đã lay động hàng triệu trái tim, với những câu thơ như lời gan ruột, khắc họa sâu sắc nỗi đau chia ly và ý chí đoàn tụ: Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng/ Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già/... Chết ba năm hình còn treo đó/ Chết thành sông, vực nước uống chung/ Chết thành đất, mọc chung dây trầu/ Chết thành bèo, trôi dạt cùng ao/ Chết thành muôi, múc chung một bát… (Trích Tiễn dặn người yêu).

Những điệu khắp giao duyên, những lời ru êm ả bên địu, câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm bao đời... đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của đồng bào Thái. Cùng với sử thi, truyện thơ, đây là phương tiện để bày tỏ tình cảm, trao đổi tâm tình và quan trọng hơn cả là để giáo dục con cháu về đạo lý làm người, về tình yêu quê hương, bản mường.

Như trong nghiên cứu Loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái, tác giả Nguyễn Thị Hải Anh đã chỉ ra nghệ thuật trong văn học Thái mang những đặc trưng rất riêng, là lối tư duy hình tượng, giàu chất thơ, giá trị nhân văn… “Dân tộc Thái luôn lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp và tình cảm con người. Lời văn, câu hát, nghệ thuật kể sử dụng triệt để biện pháp so sánh, khiến cho những điều trừu tượng trở nên cụ thể, sống động. Vẻ đẹp của con người được ví với hoa ban, con người hòa mình vào núi rừng, sông suối. Chính sự gắn kết mật thiết này đã tạo nên một không gian văn hóa đậm đặc, nơi con người và thiên nhiên là một thể thống nhất, hài hòa”.

Thách thức và nỗ lực bảo tồn

Theo nhà nghiên cứu, TS. Đỗ Thị Thu Huyền, Viện Văn học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, một trong những vấn đề cần quan tâm của văn học dân tộc thiểu số nói chung, văn học dân tộc Thái nói riêng là sự thiếu vắng môi trường diễn xướng và thực hành văn hóa. Khi đời sống thay đổi, các hình thức giải trí hiện đại len lỏi vào từng bản làng, những buổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng dần thưa thớt, khiến cho văn học dân gian mất đi mảnh đất nuôi dưỡng và sức sống tự thân.

Các nghệ nhân truyền dạy làn điệu dân ca dân tộc Thái. Ảnh: Thu Hương

Các nghệ nhân truyền dạy làn điệu dân ca dân tộc Thái. Ảnh: Thu Hương

Trong khi đó, khó khăn lớn nhất trong bảo tồn văn học dân gian dân tộc Thái chính còn là sự đứt gãy trong trao truyền. Thế hệ nghệ nhân già, những "báu vật nhân văn sống" đang ngày một thưa vắng, lớp trẻ lại ít mặn mà với di sản của cha ông do ảnh hưởng của lối sống hiện đại và các phương tiện giải trí mới. Hơn nữa, chữ Thái cổ (Lai Tay) không còn được sử dụng rộng rãi như trước, việc dạy và học chữ Thái cũng gặp nhiều khó khăn dẫn đến nguy cơ mai một các tác phẩm văn học dân gian dân tộc…

Trước thực trạng ấy, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có Quyết định số 3875/QĐ-BVHTTDL phê duyệt "Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị văn học dân gian của các dân tộc thiểu số đến năm 2030", đặt ra các mục tiêu cụ thể như kiểm kê, sưu tầm, biên dịch, số hóa và xuất bản các tác phẩm; hỗ trợ các nghệ nhân trong việc thực hành và truyền dạy.

Chính quyền nhiều tỉnh, thành phố cũng có chiến lược riêng trong bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian dân tộc, khuyến khích nhà nghiên cứu, những người con của dân tộc Thái ghi chép, gìn giữ câu hát, truyện thơ… Đặc biệt, tại Lai Châu, Sơn La, nhiều câu lạc bộ bảo tồn văn hóa Thái được thành lập, nỗ lực phục dựng lễ hội, mở lớp dạy chữ và làn điệu dân ca cho thế hệ trẻ…

Các chuyên gia cho rằng, bảo tồn văn học dân tộc Thái không "đóng băng" di sản mà cần trao sức sống mới, để giá trị tinh hoa truyền thống tiếp biến với đương đại. Đó là hành trình đòi hỏi sự chung tay của cả hệ thống, các nhà khoa học, đặc biệt là ý thức gìn giữ của chính cộng đồng người Thái. Việc gắn kết bảo tồn di sản với phát triển du lịch cộng đồng bền vững cũng là hướng đi cần thiết, tạo không gian trải nghiệm văn hóa đích thực. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số và truyền thông, giúp di sản vượt qua rào cản không gian và thời gian, tiếp cận công chúng rộng rãi, đặc biệt là giới trẻ, nâng cao hiệu quả bảo tồn trong bối cảnh mới…

Thái Minh

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/ban-giao-huong-giua-nui-rung-10384586.html