Bàn về nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự

Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 đã có quy định cụ thể về nghĩa vụ chứng minh của đương sự, tuy nhiên, không phải ai cũng nắm rõ quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là đương sự trong vụ án, vụ việc nên đã chậm trễ trong việc cung cấp chứng cứ, tài liệu. Đây có thể là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tồn đọng án, làm cho quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được bảo đảm, hiệu quả thực thi pháp luật chưa cao.

Luật sư Quách Thành Lực - Giám đốc Công ty Luật TNHH Pháp Trị. (Ảnh trong bài: Gia Hải)

Luật sư Quách Thành Lực - Giám đốc Công ty Luật TNHH Pháp Trị. (Ảnh trong bài: Gia Hải)

Theo Luật sư Quách Thành Lực - Giám đốc Công ty Luật TNHH Pháp Trị, tại khoản 1 Điều 91 BLTTDS 2015 quy định về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự: “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp...”.

Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động xét xử cho thấy nhận thức pháp luật của các bên đương sự tham gia vụ việc dân sự còn chưa đầy đủ, rõ ràng và việc thực hiện nghĩa vụ chưa đầy đủ, hoặc cố tình thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình, nhất là việc thu thập chứng cứ để chứng minh của đương sự khi chứng cứ đó không có sẵn mà ở các cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền, hoặc đương sự không đủ điều kiện để thu thập chứng cứ, hay việc yêu cầu cung cấp chứng cứ của đương sự đối với các cơ quan có thẩm quyền hiện nay rất hạn chế... và nghĩa vụ chứng minh của bị đơn trong những trường hợp vừa nêu là rất khó khăn.

Đưa ra dẫn chứng, Luật sư Lực cho biết, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 97 BLTTDS 2015 thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ bằng biện pháp “yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý”.

Đồng thời, tại Điều 106 BLTTDS 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người có yêu cầu” và “Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn...”.

Bên cạnh đó, tại Điều 7 BLTTDS 2015 quy định “trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền” là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng dân sự.

“Thế nhưng, đôi khi trên thực tế, theo nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ chứng minh thì Tòa án chỉ giải quyết vụ án dựa vào các chứng cứ mà các bên cung cấp. Bên nào không cung cấp hoặc cung cấp chứng cứ yếu hơn sẽ bị chịu bất lợi. Theo tinh thần đó thì đương sự cung cấp chứng cứ đến đâu Tòa án xét xử đến đó. Chân lý trong tố tụng dân sự luôn là chân lý cụ thể và tương đối. Khả năng chứng minh của bên nào cao hơn và thuyết phục hơn sẽ thắng cho dù sự thật diễn ra trên thực tế chưa chắc đã đúng là như vậy. Vấn đề tưởng như đơn giản, nhưng trên thực tế, các thẩm phán chưa được tập làm quen với cách phán xử như vậy” - Luật sư Lực cho hay.

Cùng quan điểm, Luật sư Lê Hiếu - Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết thêm, theo khoản 1 Điều 214 BLTTDS 2015, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi “Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án”.

Do đó, có một số vụ án tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án kéo dài đến 2 - 3 năm mà không ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án vì cơ quan, tổ chức chưa cung cấp tài liệu, chứng cứ nên không giải quyết vụ án được.

Luật sư Lê Hiếu - Đoàn Luật sư TP Hà Nội.

Luật sư Lê Hiếu - Đoàn Luật sư TP Hà Nội.

Mặc dù tại Điều 106 BLTTDS 2015 quy định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nhưng hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn việc xử lý đối với cơ quan, tổ chức không cung cấp hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án không đúng thời hạn theo quy định của BLTTDS 2015, dẫn đến Tòa án giải quyết vụ án chậm, kéo dài, gây bức xúc cho đương sự. Vì vậy, BLTTDS 2015 cũng đã bổ sung các quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự.

Quy định tại khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015 về nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ giữa các đương sự luôn là hình thức khi mà BLTTDS 2015 không quy định về thời hạn các đương sự có nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau và hậu quả pháp lý khi các bên đương sự không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao.

Ngoài ra, trên thực tế, dù đã có quy định về nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho bên đối tụng nhưng do chưa có chế tài cụ thể nên nghĩa vụ này thường bị “bỏ quên” khiến quyền lợi của các đương sự đôi khi cũng bị ảnh hưởng.

Do vậy, Luật sư Hiếu cho rằng, để phát huy vai trò của đương sự trong hoạt động tố tụng, bảo đảm quyền được biết thông tin của đương sự để có thể tổ chức việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như phù hợp pháp luật tố tụng dân sự của các nước trên thế giới, cần thiết bổ sung vào BLTTDS 2015 quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ trao đổi chứng cứ, tài liệu của các bên đương sự cho nhau trước khi mở phiên tòa và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đó.

Gia Hải - Hồng thương

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/ban-ve-nghia-vu-chung-minh-cua-duong-su-trong-to-tung-dan-su-post543011.html