Bảo vệ môi trường: Nền tảng cho phát triển bền vững. Bài 5: 'Bốc thuốc' cho môi trường - Nhìn từ cuộc giám sát toàn diện của Quốc hội

Triển khai giám sát trên phạm vi toàn quốc, tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu liên quan đến môi trường, Đoàn giám sát của Quốc hội đã thu thập khối lượng dữ liệu lớn, làm nền tảng đưa ra những kết quả có giá trị thực tiễn cao. Hành trình giám sát kéo dài nhiều tháng hướng tới mục tiêu duy nhất: Nhận diện bất cập, hoàn thiện chính sách, kiến tạo không gian phát triển mới và nâng cao năng lực công tác bảo vệ môi trường (BVMT). Báo Kiểm toán có cuộc trao đổi với ông Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Tổ trưởng Tổ giúp việc của Đoàn giám sát.

Ông Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Tổ trưởng Tổ giúp việc của Đoàn giám sát

Ông Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Tổ trưởng Tổ giúp việc của Đoàn giám sát

Việc bổ sung BVMT cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trung tâm trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đánh dấu một bước phát triển nhận thức sâu sắc của Đảng về phát triển bền vững dựa trên 3 trụ cột: Kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là một bước phát triển lý luận có tính chiến lược, phản ánh nhận thức mới, toàn diện và sâu sắc của Đảng ta về phát triển bền vững trong thời kỳ mới.

Thưa ông, Đoàn giám sát của Quốc hội vừa hoàn thành và đã báo cáo Quốc hội thảo luận ngày 28/10/2025 về kết quả giám sát chuyên đề. Là Tổ trưởng Tổ giúp việc của Đoàn giám sát, ông có thể chia sẻ về ý nghĩa của việc thực hiện chuyên đề giám sát này trong bối cảnh hiện nay?

Có thể khẳng định, cuộc giám sát này nhận được sự quan tâm rất lớn của cử tri, Nhân dân và các đại biểu Quốc hội (ĐBQH). Ngay tại phiên thảo luận toàn thể ngày 28/10, đã có 43 lượt đại biểu phát biểu và 1 lượt tranh luận, với không khí rất sôi nổi, tâm huyết và trí tuệ.

Đoàn giám sát đã tiến hành giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường trên phạm vi toàn quốc, kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2024.

Đối tượng giám sát bao gồm Chính phủ; Bộ Tài nguyên và Môi trường; các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan; Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Trong quá trình triển khai, Đoàn giám sát đã tổ chức 2 phiên họp, thành lập 3 đoàn công tác làm việc tại 9 tỉnh, thành phố (sau sáp nhập); đồng thời làm việc trực tiếp với Chính phủ, 8 Bộ, Thanh tra Chính phủ và 4 tập đoàn, tổng công ty; tổ chức 4 hội thảo tham vấn ý kiến các chuyên gia, cơ quan, tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp.

Ngay từ khi bắt đầu triển khai, Đoàn giám sát xác định Chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thi hành” là một chuyên đề có ý nghĩa thực tiễn và chính trị sâu sắc, đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Điều này được thể hiện qua ba khía cạnh:

Thứ nhất, giám sát góp phần khẳng định vị thế trung tâm của công tác BVMT trong phát triển bền vững. Việc triển khai Chuyên đề thể hiện rõ quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước rằng BVMT là “trụ cột” của phát triển bền vững, và không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, giám sát là dịp đánh giá toàn diện việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật về BVMT, trọng tâm là Luật BVMT năm 2020, qua đó chỉ rõ những hạn chế, bất cập, nguyên nhân và trách nhiệm. Đoàn giám sát đã làm việc với Chính phủ, 8 Bộ, 9 địa phương và 4 tập đoàn, tổng công ty lớn. Kết quả thu được là những luận cứ quan trọng để kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật.

Thứ ba, các kiến nghị của Đoàn giám sát hướng tới thúc đẩy giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách, tháo gỡ điểm nghẽn và kiến tạo không gian phát triển mới trong lĩnh vực này. Cuộc giám sát được tiến hành vào thời điểm các cấp, các ngành đang tổng kết Nghị quyết Đại hội XIII và xây dựng văn kiện cho Đại hội XIV của Đảng, nên kết quả giám sát góp phần đẩy nhanh việc thực hiện các chỉ tiêu môi trường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật.

Có thể nói, chuyên đề giám sát lần này đóng vai trò quan trọng trong việc “bắt mạch, bốc thuốc” cho công tác BVMT, đánh giá khách quan những chuyển biến tích cực kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực; đồng thời tạo cơ sở để Quốc hội ban hành Nghị quyết với các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, nhằm hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực thực thi BVMT trong giai đoạn tới.

Kết quả giám sát và nhiều ý kiến ĐBQH chỉ ra rằng, tỷ lệ chi ngân sách cho BVMT hiện nay còn thấp so với yêu cầu thực tiễn; Quỹ BVMT chưa phát huy hiệu quả; việc thu hút đầu tư xã hội cho công tác môi trường còn hạn chế. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

Có thể nói, nguồn lực tài chính chính là một trong những hạn chế lớn nhất được chỉ ra trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT. Quan điểm của Đoàn giám sát là: Đầu tư cho môi trường chính là đầu tư cho phát triển bền vững. Tuy nhiên, nguồn lực hiện tại vẫn chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn, trong khi việc huy động xã hội hóa còn gặp nhiều rào cản.

Qua giám sát cho thấy, chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho BVMT vẫn thấp. Dù NSNN dành cho sự nghiệp môi trường hằng năm luôn được bố trí không dưới 1% tổng chi NSNN theo Nghị quyết số 41-NQ/TW và cao hơn so với giai đoạn trước, nhưng tốc độ tăng này chưa theo kịp với tốc độ gia tăng nhanh của các áp lực môi trường do phát triển kinh tế - xã hội và đô thị hóa mạnh mẽ.

Chi NSNN cho BVMT và ứng phó biến đổi khí hậu chỉ bằng khoảng 51% tổng thu từ thuế, phí môi trường. Một số địa phương, nhất là nơi nguồn thu không đủ bù chi, vẫn chưa đảm bảo bố trí 1% chi ngân sách cho BVMT như quy định.

Bên cạnh đó, Quỹ BVMT hoạt động chưa thật sự hiệu quả, còn phân tán và thiếu đồng bộ, quy mô vốn nhỏ, cơ chế pháp lý còn nhiều vướng mắc. Nguồn vốn của các Quỹ BVMT địa phương hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư cho các dự án môi trường, đặc biệt là các dự án cần vốn lớn.

Rõ ràng, nguồn lực cho BVMT của Việt Nam hiện chưa tương xứng với yêu cầu phát triển bền vững. Trong khi Việt Nam chi khoảng 1% tổng chi NSNN cho BVMT, thì trung bình các nước ASEAN chi khoảng 1% GDP, còn các nước phát triển chi từ 3-4% GDP.

Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý” vẫn chưa được áp dụng triệt để. Việc chưa thu đủ giá dịch vụ thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt và chất thải rắn sinh hoạt cũng chưa tạo động lực cho tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này.

Trong bối cảnh phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, hướng tới phát triển bền vững, việc đầu tư cho công tác BVMT cần tập trung vào những trọng tâm nào, thưa ông?

Theo tôi, cần tập trung nguồn lực vào ba nhóm trọng tâm lớn:

Một là, ưu tiên ngân sách và xã hội hóa cho hạ tầng kỹ thuật môi trường thiết yếu, xử lý các điểm ô nhiễm trọng điểm. Cụ thể, cần đầu tư xây dựng hệ thống thu gom, nhà máy xử lý nước thải đô thị, phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ nước thải sinh hoạt ở các đô thị loại I trở lên được thu gom, xử lý đạt khoảng 70%. Song song với đó, xây dựng hệ thống phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đồng bộ, ưu tiên công nghệ đốt rác phát điện; giảm tỷ lệ chôn lấp trực tiếp xuống dưới 50%.

Hai là, tập trung phát triển kinh tế xanh và sử dụng hiệu quả các công cụ thị trường. Cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, carbon thấp; phát triển công nghiệp và dịch vụ môi trường, đặc biệt là trong lĩnh vực tái chế, xử lý chất thải. Cùng với đó là huy động nguồn lực tư nhân thông qua các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh, tín dụng xanh, đầu tư xanh.

Ba là, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý môi trường. Tăng cường năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo sớm; xây dựng nền tảng dữ liệu và hạ tầng số thống nhất, liên thông, phục vụ giám sát, kiểm soát nguồn thải lớn và các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm cao. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý chất thải và thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản trị môi trường.

Ông có thể chia sẻ thông điệp mà ông tâm đắc nhất từ cuộc giám sát này?

Tôi rất tâm đắc với phát biểu kết luận của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan tại phiên thảo luận ngày 28/10/2025:

“Thời điểm tốt nhất để trồng cây là mười năm trước, còn thời điểm tốt thứ hai chính là hôm nay. Hôm nay là thời điểm tốt nhất để mỗi người chúng ta cụ thể hóa kết quả giám sát chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường bằng những nhận thức đúng đắn, nghĩa cử tốt đẹp và hành động thiết thực - vì một Việt Nam xanh”.

Xin trân trọng cảm ơn ông!./.

NHÓM PV

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/bao-ve-moi-truong-nen-tang-cho-phat-trien-ben-vung-bai-5-boc-thuoc-cho-moi-truong-nhin-tu-cuoc-giam-sat-toan-dien-cua-quoc-hoi-44140.html