Bé 4 tháng tuổi chảy máu não do bị người lớn xốc nách, rung lắc, chuyên gia cảnh báo những tổn thương nguy hiểm không thể nhìn bằng mắt thường!
Các bác sĩ khuyến cáo, nhiều trường hợp trẻ bị tổn thương trong não nhẹ hoặc chảy máu não rất khó phát hiện bằng mắt thường.
Chảy máu não do trẻ bị rung lắc
Theo nguồn tin từ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, vừa qua các y bác sĩ Khoa Nhi bệnh viện này vừa cứu sống một bệnh nhi 4 tháng tuổi bị chảy máu não do hội chứng rung lắc.
Được biết, 2 ngày trước khi nhập viện, bệnh nhi được mẹ đưa đi chơi, chuyền tay qua nhiều người ẵm xốc nách và rung lắc. Đến hôm sau, đứa trẻ có triệu chứng ngủ li bì, bú kém, không sốt, sau đó ngủ li bì nhiều hơn, kèm theo thở nấc nên được gia đình đưa vào viện.
Bệnh nhi nhập viện trong tình trạng hôn mê, thở nấc, tím môi, nhịp tim rõ đều, thóp trước phồng, bụng mềm, không tiêu chảy, không sốt. Qua kiểm tra cận lâm sàng, bác sĩ chẩn đoán: Xuất huyết não (xuất huyết dưới nhện và tụ máu dưới màng cứng) nghi do hội chứng rung lắc.
Bệnh nhi được điều trị hồi sức tích cực bằng các biện pháp thở máy, điều chỉnh rối loạn thông khí, điều chỉnh rối loạn điện giải, truyền máu, cắt cơn co giật, nuôi dưỡng tĩnh mạch. Sau 7 ngày điều trị nội khoa hồi sức tích cực, trẻ tỉnh, được cai máy thở rút ống nội khí quản. Đến ngày 6/2, trẻ tỉnh táo, bú tốt, dấu hiệu sinh tồn ổn định hoàn toàn, dự kiến ra viện trong vài ngày tới.
Bác sĩ cho biết, hội chứng rung lắc là một dạng chấn thương đầu và não nghiêm trọng xảy ra ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ khi bị rung lắc mạnh. Hội chứng này hay gặp hơn ở trẻ dưới 2 tuổi, đặc biệt ở trẻ sơ sinh đến 8 tháng tuổi, tuy nhiên trẻ dưới 5 tuổi cũng có thể bị ảnh hưởng.
Chảy máu não do rung lắc nhiều ở trẻ: những tổn thương không thể thấy bằng mắt thường
Trẻ sơ sinh có kích thước đầu lớn và nặng khoảng 1 phần tư so với toàn cơ thể. Trong đầu, có những khoảng trống giữa não và xương sọ cho phép não tiếp tục lớn và phát triển. Não của trẻ thì mềm với màng não mỏng. Các cơ và dây chằng vùng cổ thì yếu và chưa phát triển cũng chưa thể chịu đựng được sức nặng của đầu.
Khi bị rung lắc, xương sọ mềm và dẻo của trẻ không chịu được những lực này, sẽ chuyển lực tới não, khi não không có sự di chuyển đồng bộ và gây ra sự va đập trở lại tới xương sọ, làm giập não, tăng áp lực, phù và chảy máu trong não. Các tĩnh mạch lớn dọc theo phía ngoài não cũng mỏng manh và dễ rách, gây chảy máu, máu tụ dưới màng cứng, ngoài màng cứng, dưới màng nhện, tăng áp lực nội sọ. Những tổn thương này có thể là vĩnh viễn.
Tuy nhiên những tổn thương này không thể thấy được từ bên ngoài bằng mắt thường. Nhiều trường hợp tổn thương trong não nhẹ rất khó phát hiện.
Những điều không nên làm để giữ an toàn cho trẻ
Để phòng ngừa những nguy hiểm do hội chứng này, Bác sĩ Lê Thanh Hải, Phó Giám đốc BV Nhi Trung ương khuyến cáo, tuyệt đối không được đung đưa mạnh đối với trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ từ 0-6 tháng. Bởi những tổn thương không chỉ xảy ra trong thời điểm hiện tại mà có thể ảnh hưởng về lâu dài.
Các bậc cha mẹ cũng không nên có những động tác làm thay đổi từ thế trẻ nhanh đột ngột như: Trẻ đang năm được bế thốc dậy, nhấc bổng trẻ lên cao, xốc nách nhấc trẻ lên cao rồi hạ xuống. Đặc biệt, khi trẻ quấy khóc hoặc làm một việc gì đó không vừa lòng, người lớn không nên tát, đánh vào đầu trẻ.
Khi di chuyển trẻ, hãy giữ cổ ở tư thế tương đối cố định. Không ôm giữ trẻ khi cãi cọ. Khi trẻ khóc kéo dài không dỗ được cần phải kiểm tra kỹ nguyên nhân, không nên bỏ qua chi tiết này. Những bậc ông bà của trẻ cũng không nên vì quá yêu trẻ hay dỗ dành trẻ mà mà rung lắc khi trẻ khóc nhiều vì điều này rất nguy hiểm với trẻ.
Dấu hiệu trẻ bị hội chứng rung lắc
Dấu hiệu trẻ bị hội chứng này bao gồm rối loạn tri giác ở nhiều mức độ, lừ đừ, vật vã, hôn mê, co giật, nôn ói, bú kém hoặc bỏ bú, nhịp thở chậm và bất thường, thóp phồng. Ngoài ra, trẻ bị thương tổn liên quan đến bạo lực như bầm tím mặt, da đầu, cánh tay, lưng hoặc bụng.
Bác sĩ khuyến cáo các tổn thương não sẽ để lại nhiều di chứng thần kinh lâu dài cho trẻ, nếu nhẹ có thể làm cho trẻ chậm phát triển tinh thần, mất khả năng nói năng lưu loát, giảm khả năng học tập, nặng hơn có thể gây xuất huyết võng mạc mắt, giảm thị lực hoặc mù, liệt thần kinh, co giật, thậm chí gây tử vong.