Bệnh bạch hầu không lây lan nguy hiểm như COVID-19?
Bệnh bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng truyền nhiễm do vi khuẩn có tên Corynebacteria diphtheriae gây ra.
Vi khuẩn tiết ra chất độc gây tích tụ mô xám trong cổ họng, dẫn đến các vấn đề về nuốt và thở.
Trong lúc nhiều người tỏ ra hoang mang về mức độ lây lan của bệnh bạch hầu trong cộng đồng, bác sĩ Hoàng Sầm – Chủ tịch Viện Y học bản địa Việt Nam, chia sẻ: “Bệnh bạch hầu không lây lan nguy hiểm như COVID-19, những người mắc đều nằm trong số khoảng rỗng tiêm phòng.
Nếu tôi nhớ không nhầm hình như cách đây 20 năm, Bộ Y tế đã cho tiêm phòng rồi. Như vậy chỉ còn thưa thớt một số người chưa tiêm và không có miễn dịch trong cơ thể. Đây là loại vi khuẩn ngoại độc tố, nghĩa là khi nó chết rồi thì sẽ hết hẳn, không tiết độc tố nữa.
Kháng sinh tốt nhất cho loại vi khuẩn này là Vamcomycin, hoặc Erthoromycin, penicinlin, amoxylin... Nhìn chung, đợt dịch này hoàn toàn khống chế được và không đáng lo. Tuy nhiên, cái chết bởi bạch hầu là do nhiễm độc đa tạng, đặc biệt suy cơ tim do nhiễm độc, khi nghi ngờ thì không nên chần chừ mà phải vào khoa truyền nhiễm ngay.”
Bệnh bạch hầu được điều trị như thế nào?
Theo who.int, việc điều trị bệnh bạch hầu bắt đầu ngay lập tức, đôi khi ngay cả trước khi kết quả xét nghiệm được xác nhận.
Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ kê toa thuốc kháng độc tố bạch hầu để ngăn chặn tổn thương các cơ quan trong cơ thể người bệnh. Họ cũng sẽ kê đơn thuốc kháng sinh, điển hình là penicillin hoặc erythromycin, để chống nhiễm trùng.”
Những người mắc bệnh bạch hầu được cách ly để tránh lây nhiễm cho người khác. Người bị nhiễm bệnh không còn khả năng lây nhiễm trong khoảng 48 giờ sau khi dùng kháng sinh.
Khi điều trị kết thúc, các xét nghiệm sẽ được thực hiện lại để đảm bảo vi khuẩn đã biến mất. Sau khi hết vi khuẩn, người bệnh sẽ được tiêm vắc-xin để ngăn ngừa nhiễm trùng trong tương lai.
Dấu hiệu và triệu chứng
Các triệu chứng của bệnh bạch hầu thường bắt đầu từ 2 đến 5 ngày sau khi tiếp xúc với vi khuẩn. Các triệu chứng điển hình của nhiễm trùng bao gồm đau họng, sốt, sưng cổ và suy nhược.
Trong vòng 2–3 ngày kể từ khi bị nhiễm trùng, mô chết trong đường hô hấp tạo thành một lớp phủ dày, màu xám có thể bao phủ các mô ở mũi, amidan và cổ họng, khiến bạn khó thở và nuốt.
Hầu hết các trường hợp nặng và tử vong do bệnh bạch hầu đều xảy ra do độc tố bạch hầu và tác dụng của nó. Các biến chứng có thể bao gồm viêm tim và dây thần kinh.
Đối với những người chưa được tiêm chủng mà không được điều trị đầy đủ, bệnh bạch hầu có thể gây tử vong trong khoảng 30% trường hợp, trong đó trẻ em dưới 5 tuổi có nguy cơ tử vong cao hơn.
Nhóm người có nguy cơ mắc bạch hầu
Bất kỳ người nào chưa có miễn dịch hoặc chưa được tiêm phòng đều có thể bị nhiễm bệnh. Bệnh bạch hầu đã chứng kiến sự bùng phát trở lại bất cứ khi nào tỷ lệ tiêm chủng trở nên thấp.
Cách xử lý khi nghi nhiễm bạch hầu
Nguy cơ biến chứng hoặc tử vong giảm đáng kể nếu điều trị thích hợp được cung cấp sớm trong quá trình phát bệnh. Vì lý do này, nếu nghi ngờ bệnh bạch hầu, cần tiến hành xét nghiệm để xác nhận bệnh kịp thời và bắt đầu điều trị càng sớm càng tốt.
Những người đã tiếp xúc với các trường hợp mắc bệnh bạch hầu nên được điều trị bằng kháng sinh dự phòng để ngăn ngừa bệnh tật. Tình trạng miễn dịch của họ đối với tất cả những người tiếp xúc cũng cần được kiểm tra. Nếu họ chưa được tiêm phòng đầy đủ thì cũng nên tiêm vắc xin.
Theo who.int, vào năm 2022, 84% trẻ em được tiêm đủ 3 liều vắc xin phòng bệnh bạch hầu cơ bản. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể về mức độ bao phủ giữa và trong các quốc gia.
Việc tiêm chủng liên tiếp cho các nhóm trẻ em có thể dẫn đến các ca bệnh và bùng phát bệnh bạch hầu.
Phản ứng của WHO
Trong những năm gần đây, bệnh bạch hầu đã bùng phát do không có đủ vắc xin. Để kiểm soát những đợt bùng phát này, WHO đã làm việc với các quốc gia thành viên trong việc ứng phó với dịch bệnh và tăng cường các chương trình tiêm chủng thông thường nhằm cải thiện và duy trì phạm vi tiêm chủng nhằm ngăn ngừa nhiễm trùng bạch hầu và tử vong.
Theo who.int