Bí ẩn về tộc người 'nhỏ bé' nhất Việt Nam
Trong 54 dân tộc anh em, có lẽ dân tộc Ngái là một trong những dân tộc 'nhỏ bé' nhất Việt Nam với số dân chưa đến 1100 người, cư trú rải rác trên gần 10 tỉnh thành từ Bắc vào Nam.
Trong 54 dân tộc anh em, có lẽ dân tộc Ngái là một trong những dân tộc “nhỏ bé” nhất Việt Nam với số dân chưa đến 1100 người, cư trú rải rác trên gần 10 tỉnh thành từ Bắc vào Nam. Trong đó, Tam Thái – một bản nhỏ thuộc xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên - là nơi đồng bào Ngái quần cư đông nhất.
Nguy cơ suy thoái giống nòi
Suốt hàng chục năm qua, các nhà khoa học đã có nhiều tranh luận về dân tộc Ngái ở Việt Nam. Có người cho rằng người Ngái chính là người Hoa, hay một nhánh của người Hoa dựa trên những nét tương đồng về văn hóa cũng như phong tục. Song tới cuối những năm 70 thế kỉ trước, với những nghiên cứu công phu của các nhà nghiên cứu đã định danh người Ngái trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Đồng thời chỉ ra rằng, người Ngái với người Hoa là 2 cộng đồng độc lập, khác biệt cả về ngôn ngữ, phương thức sản xuất.
Năm 1999 số dân của đồng bào Ngái là 4.841 người gồm có các nhóm địa phương: Ngái Hắc Cá, Sín, Đản, Lê. Song tên gọi ưa thích nhất là Sán Ngái, mang nghĩa là “người miền núi”. Tên gọi ấy không chỉ mang hàm y về địa hình nơi họ sinh sống mà còn như lời khẳng định rằng, dân tộc mình là một trong những nhóm người có công khai phá, dựng xây nên các bản làng trên vùng cao của các địa phương có dân tộc Ngái trú chân. Cho tới năm 2009, bằng nhiều nguyên nhân khác nhau, dân số của cộng đồng này đã có sự sụt giảm đáng kể khi chỉ còn chưa đầy 1100 người. Hiện diện ở Tam Thái có khoảng trên 400 người, chiếm hơn một phần ba số người Ngái ở Việt Nam. Nơi đây được ghi nhận là xóm người Ngái tập trung đông nhất, còn ở các địa phương khác, bà con sống xen kẽ với các dân tộc anh em xung quanh.
Cụ Hoa Huân năm nay đã 91 tuổi, nhưng ông nhớ rõ lắm cuộc di cư cùng gia đình từ Hà Cối, Quảng Ninh lên Thái Nguyên khi ông mới chỉ 11 tuổi. “Bố tôi sinh ra ở Trung Quốc, di cư sang Việt Nam. Tôi sinh ra ở Hà Cối. Năm tôi 10 tuổi thì bắt đầu đến Thái Nguyên. Không nhớ là đã đi bao nhiêu ngày, nhưng khi đến vùng đất này thì dừng lại, vì ở đây đất đai tốt, lại có nhiều mỏ thép, dễ làm ăn”, cụ Huân kể.
Ở Tam Thái, họ Trần được xem là một trong ba dòng họ đầu tiên của người Ngái đến khai phá và lập nghiệp ở đất này. Trao đổi với chúng tôi, anh Trần Văn Cường (một người dân địa phương), cho biết: Vào năm 1920, ba hộ người Ngái thuộc ba dòng họ Thẩm, họ Trần và họ Lâm từ Hà Cối, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh về đây lập nghiệp, rồi kết hôn với người Sán Dìu và các tộc người khác để phát triển dần cho đến hôm nay.
Sự biến thiên của lịch sử cũng đã làm Tam Thái không còn giữ lại được không gian thôn bản đặc trưng của người Ngái ngày nào. Xưa kia, ở đây hầu hết là nhà trình tường với hai dạng nhà chữ Điền và nhà chữ Môn, với các công trình phụ nằm dọc hai bên dành cho bếp, chuồng gia súc... nối tiếp nhau thành 1 vòng khép kín. Ở giữa là sân, giống như một cái giếng trời rộng và chỉ có 1 cửa ra vào. Vật liệu dùng để xây nhà là những viên gạch rất to, được làm từ đất trộn nhuyễn với rơm rồi đóng khuôn, phơi nỏ. Kiến trúc đó cho thấy lối sống khép kín, độc lập của họ.
Thời gian gần đây, dù không còn giữ được kiến trúc cũ, nhưng người Ngái ở Tam Thái vẫn giữ kiểu nhà truyền thống là một tổ hợp gồm nhà chính để ở, nhà bếp và chuồng gia súc được xây dựng riêng biệt. Họ vẫn lập thôn xóm ở sườn đồi, thung lũng. Cách bài trí trong nhà vẫn được người Ngái gìn giữ theo lệ xưa với bàn thờ gia tiên, bàn thờ thổ công được đặt ngay trong gian chính ngôi nhà.
Tính mùa vụ theo tiếng chim kêu
Trong đời sống thường nhật, người Ngái giữ được không nhiều phong tục cổ xưa, trừ văn hóa về ẩm thực. Theo nhiều tài liệu dân tộc học, người Ngái ở Việt Nam có nguồn gốc từ người Hẹ hay Khách Gia ở Phúc Kiến, Quảng Đông (Trung Quốc) di cư theo đường biển vào tỉnh Quảng Ninh, TP. Hải Phòng từ nhiều thế kỷ trước. Theo phong cách ẩm thực Quảng Đông, một trong tám phong cách ẩm thực tiêu biểu Trung Quốc, thì ẩm thực Quảng Đông nghiêng về các món chiên, rán và hầm. Phong cách ẩm thực của người Ngái cũng nghiêng mạnh về các món chiên, rán và hầm với nhiều dầu mỡ, mang đậm vị cay và ngọt.
Dẫu các bản làng Ngái ở Tam Thái hay Lục Nam (Bắc Giang), Lục Hồn, Hà Cối (Quảng Ninh) đang ngày một neo người hơn do nhiều năm qua, dân số của dân tộc này không tăng song các bản làng người Ngái vẫn khá khang trang, trù phú. Họ gieo trồng thời vụ theo mùa dựa vào kinh nghiệm truyền đời và những dấu hiệu thiên nhiên như tiếng chim kêu, mùa hoa nở, lá cây rừng. Họ cũng rất sáng tạo trong việc đắp đập dẫn nước, làm hồ trữ nước cho mùa vụ. Họ cũng rất giỏi những nghề thủ công như dệt chiếu, làm mành trúc, rèn, mộc, nung vôi, làm gạch ngói... Tỷ lệ đói nghèo của dân tộc Ngái tại các địa phương thường chỉ ở mức 15 đến 20%.
Mặc dù ngày nay người Ngái không còn mặc trang phục truyền thống, nhưng theo lời ông Hoa Huân thì trang phục của họ giống với người Hoa. Phụ nữ Ngái thường mặc áo 5 thân, cài khuy lệch về bên phải. Nam giới mặc áo màu chàm, có túi, quần lá tọa. Đồng bào cũng thường đan các loại mũ, nón làm từ mây tre, lá cọ để sử dụng lúc đi làm và che ô, quàng khăn vào những dịp quan trọng.
Coi trọng các hình thức phân chia gia đình, dòng họ cũng như các hình thái sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, người Ngái rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và các loại ''thần'', ''ma'' ... Các gia đình đều có bàn thờ tổ tiên, thôn xóm nào cũng có đền, chùa. Đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của bà con. Trong gia đình, người chồng quyết định mọi việc lớn, con trai được coi trọng, con gái không được chia gia tài khi cha mẹ chết và phải về nhà chồng sau khi cưới. Các thôn xóm bao giờ cũng có một người trưởng tộc, có quyền quyết định, điều hành mọi việc lớn nhỏ trong thôn.
Xưa kia, trai gái Ngái được cha mẹ dựng vợ gả chồng phải trải qua hai lần cưới: lễ thành hôn và lễ nhập phòng. Để cưới vợ cho con, nhà trai chủ động chọn tìm đối tượng dạm hỏi. Khi có thai, phụ nữ Ngái kiêng cữ rất cẩn thận: không ăn ốc, thịt bò, dê, không may vá hay mua quần áo. Sau khi sinh con 60 ngày đối với con đầu, 40 ngày đối với con thứ, người sản phụ mới được đến nhà mẹ đẻ của mình…
Nỗ lực bảo tồn
Tuy đang phải đối mặt nguy cơ suy thoái giống nòi, nhưng có điều đáng mừng là bà con ở Tam Thái vẫn còn sử dụng được tiếng Ngái trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày cũng như trong các làn điệu dân ca, hát giao duyên được gọi là Sường cô hay Xướng ca. Hình thức sinh hoạt văn hóa này khá lãng mạn với những ca từ trong sáng, tình cảm và bao hàm nhiều nội dung răn dạy cách ứng xử, kinh nghiệm làm ăn. Thậm chí là có thể ngẫu hứng sáng tác thêm lời mới cho Sường cô nên trai gái Ngái có thể hát đối nhau 5 đến 7 đêm liền vẫn không bị trùng lặp. Kho tàng văn học dân gian cũng khá phong phú, nhiều trò chơi như múa sư tử, múa gậy, rồng rắn vui nhộn song ngày nay bà con ít sử dụng nên bị mai một nhiều.
Nhiều gia đình họ Thẩm ở Tam Thái từ nhiều năm nay vẫn ăn cơm nấu theo kiểu cha ông như thời còn ở miền Đông Triều, Quảng Ninh. Người Ngái ở đây chuộng gạo tẻ mà họ gọi là “trám cục” trồng trên các thửa ruộng lầy “sùi thẻn” quanh núi Cái với hai vụ chiêm và vụ mùa. Gạo sau khi được nấu qua một lượt nước sôi, sẽ được vớt ra để hong chín bằng phương pháp cách thủy. Phần nước cơm còn lại sẽ được dùng làm nước uống giải khát gọi là “mì canh”.
Ngoài ra, còn một món ăn mang đậm nguồn gốc người Hẹ, Khách Gia mà người Ngái mang vào đất Việt, đó chính là món “khau nhục” mà ông Thẩm Dịch Thọ, trưởng họ Thẩm ở Tam Thái đã chế biến mời chúng tôi nếm thử. Món ăn này giờ đây đã ảnh hưởng lên rất nhiều dân tộc anh em khác như Sán Chỉ, Cao Lan và đặc biệt là người Tày và người Nùng. Người Tày Nùng gọi vui món này là “khổ nhục” bởi quy trình chế biến cầu kỳ, vất vả. Thế nhưng không thể không làm vì hương vị thơm ngon của nó.
Có thể nói, ẩm thực không chỉ là để duy trì cuộc sống, mà còn là sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên. Không chỉ như vậy, tiếp cận với phong cách ẩm thực từ cá nhân, gia đình cho đến cả một cộng đồng. Ở người Ngái, trong bữa ăn cũng không có nhiều kiêng kỵ, con gái hay nàng dâu không phải sắp mâm ăn riêng mà được phép ngồi chung với cha và các anh em trai của chồng. Và đây là điều khác hơn nhiều so các dân tộc khác.
Một giá trị văn hóa phi vật thể không thể không nhắc đến của người Ngái chính là Lễ Kỳ Yên thường được tổ chức vào dịp đầu năm mới, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng sinh sôi, tươi tốt, mọi nhà mọi người được bình an, vạn sự như ý… Lễ cũng độc đáo này được chuẩn bị khá cầu kì và đặc biệt không thể thiếu bức tranh Tam thanh Ngọc đế (các vị thần linh), thanh la, tù và, dao...
Người chủ lễ mặc áo cà sa, đội mũ hòa thượng dẫn đầu một đoàn người từ 5 đến 10 thanh niên khỏe mạnh đi vòng quanh sân lễ theo hình bát quái, vừa đi vừa múa hát. Lời bài hát mang nội dung báo cáo với thần linh về kết quả sản xuất của một năm qua của bà con dân tộc, cũng như mong cho một năm mới mọi nhà mọi vật đều hưng thịnh. Nếu đến với Lục Nam vào những ngày đầu năm mới, bạn sẽ dễ dàng được chứng kiến lễ Kỳ Yên rộn ràng tiếng thanh la, tù và…
Chọn đất này làm quê hương đã qua ba thế kỷ, thế nhưng mãi đến năm 1979, người Ngái mới chính thức được công nhận là một dân tộc. Trên chặng đường thiên di của mình, trải qua nhiều biến cố lịch sử, có lúc, người Ngái phải tự xóa nhòa mình vào nhiều cộng đồng dân tộc anh em. Thế nhưng, với những món ăn truyền thống mãi còn truyền đời, người Ngái vẫn minh chứng cho sự hiện diện của mình trong đại gia đình 54 dân tộc trên đất Việt.