Biến tài sản vô hình thành động lực tăng trưởng

Trong kỷ nguyên số, khi dữ liệu, thương hiệu, phần mềm hay thuật toán ngày càng trở thành yếu tố quyết định, tài sản vô hình nổi lên như trụ cột phát triển mới của nền kinh tế.

Không chỉ góp phần gia tăng giá trị doanh nghiệp, tài sản vô hình còn tạo ra lợi thế cạnh tranh và định vị quốc gia trên bản đồ đổi mới sáng tạo toàn cầu. Với định hướng chiến lược từ Nghị quyết số 57-NQ/TƯ và Nghị quyết số 68-NQ/TƯ, Việt Nam đang có cơ hội lớn để biến tài sản vô hình thành động lực tăng trưởng.

Quang cảnh diễn đàn “Thể chế hóa đổi mới sáng tạo - Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TƯ” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức, tháng 9-2025.

Quang cảnh diễn đàn “Thể chế hóa đổi mới sáng tạo - Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TƯ” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức, tháng 9-2025.

“Mỏ vàng” của thời đại số

Trong nền kinh tế tri thức, tài sản vô hình bao gồm các quyền sở hữu trí tuệ (bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu), phần mềm, dữ liệu số, bí mật kinh doanh, thương hiệu, cũng như các tài sản số mới nổi như tiền mã hóa (crypto), mã thông báo không thể thay thế (NFT) hay hợp đồng thông minh… Tài sản vô hình ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong vốn hóa doanh nghiệp và Tổng sản phầm nội địa (GDP) của quốc gia.

Theo báo cáo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và Brand Finance (2024-2025), giá trị tài sản vô hình toàn cầu đã vượt 80.000 tỷ USD, cao hơn cả GDP của toàn bộ nhóm 7 cường quốc có nền kinh tế phát triển tiêu biểu (G7) cộng lại. Điều này phản ánh sự chuyển dịch căn bản: Từ chỗ coi đất đai, than đá, dầu mỏ hay nhà xưởng là thước đo sức mạnh, thế giới ngày nay lấy quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, dữ liệu và phần mềm làm tiêu chí hàng đầu.

Theo Tiến sĩ Vũ Ngọc Dương (Trường Đại học Luật Hà Nội), tài sản vô hình chính là “nền tảng của đổi mới sáng tạo, mà đổi mới sáng tạo lại là động lực then chốt để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên kinh tế số”. Ông cho rằng, dù khung pháp lý các quốc gia còn khác biệt, nhưng đều thống nhất coi tài sản vô hình là tài sản có giá trị kinh tế, có thể chuyển nhượng và cần được bảo vệ chặt chẽ.

Ở Việt Nam, tài sản vô hình ngày càng khẳng định vai trò trong các ngành công nghiệp sáng tạo. Tiến sĩ Vũ Ngọc Dương cho biết, năm 2024, lĩnh vực phần mềm, thương mại điện tử, công nghệ tài chính (fintech) đã đóng góp khoảng 7% GDP, đồng thời tạo điều kiện cho hàng triệu người dân tiếp cận dịch vụ tài chính số thông qua các nền tảng như MoMo hay Viettel Money.

Tuy vậy, thách thức còn rất lớn. Tiến sĩ Vũ Ngọc Dương chỉ ra, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm ở Việt Nam vẫn ở mức 70% vào năm 2023, cao hơn trung bình toàn cầu, làm giảm niềm tin của nhà đầu tư và hạn chế khả năng hội nhập.

Luật sư Trương Anh Tú (Chủ tịch Công ty Luật TNHH Trương Anh Tú - TAT Law Firm) cũng cảnh báo rằng, nhiều tài sản vô hình chưa được tài chính hóa, chưa được định giá và thế chấp, dẫn đến tình trạng nhiều ý tưởng vẫn chỉ dừng lại ở ý tưởng, chưa trở thành nguồn lực phát triển thực thụ.

Mở hành lang pháp lý cho tài sản vô hình

Trong các văn kiện quan trọng gần đây, Đảng ta đã có bước đi mạnh mẽ khẳng định tầm quan trọng của tài sản vô hình. Nghị quyết số 57-NQ/TƯ xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là yếu tố quyết định sự phát triển quốc gia, đặt mục tiêu đến năm 2030, kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP và trên 40% doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo. Nghị quyết coi đổi mới sáng tạo không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà còn là nhiệm vụ thể chế, đòi hỏi luật pháp, tài chính, giáo dục, sở hữu trí tuệ và công nghệ cùng chuyển động.

Đặc biệt, Nghị quyết số 68-NQ/TƯ về phát triển kinh tế tư nhân lần đầu tiên gọi đích danh, “tài sản vô hình” là nguồn lực then chốt, yêu cầu thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu, quyền định đoạt và khả năng tài chính hóa tài sản này.

Tiến sĩ Vũ Thùy Linh (Trung tâm Pháp luật & Tác quyền, Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam) cho hay, Nghị quyết số 68-NQ/TƯ đã mở đường cho việc thử nghiệm và xây dựng khung pháp lý quản lý tài sản số, đồng thời nhấn mạnh việc cần phải hoàn thiện chính sách dữ liệu để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.

Thể chế hóa những định hướng đó, Bộ Tài chính đã có Thông tư số 37/2024/TT-BTC ban hành Chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về thẩm định giá tài sản vô hình, khẳng định tài sản vô hình phải có khả năng tạo ra lợi ích kinh tế và định lượng được bằng tiền. Đặc biệt, Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025, có hiệu lực từ ngày 1-1-2026, lần đầu tiên công nhận crypto, NFT và hợp đồng thông minh là tài sản hợp pháp, mở ra hành lang pháp lý cho đổi mới sáng tạo trong công nghệ tài chính và công nghệ chuỗi khối (blockchain).

Tuy nhiên, rào cản vẫn còn nhiều. Luật sư Trương Anh Tú chỉ rõ: Pháp luật còn phân mảnh, ngân hàng chưa chấp nhận sở hữu trí tuệ làm tài sản bảo đảm, thiếu cơ chế định giá và bảo hiểm tài sản trí tuệ, doanh nghiệp chưa sẵn sàng “tài sản hóa” ý tưởng. Bên cạnh đó, việc xử lý vi phạm bản quyền và bằng sáng chế chưa đủ nghiêm khắc, khiến tài sản trí tuệ bị xâm phạm tràn lan. Các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân có nguy cơ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp nhỏ. Thêm nữa, nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và công nghệ số còn thiếu hụt.

Để giải quyết, các chuyên gia đề xuất cần hoàn thiện hành lang pháp lý, đặc biệt là sớm ban hành nghị định hướng dẫn Luật Công nghiệp công nghệ số; xây dựng cơ chế ngân hàng chấp nhận tài sản vô hình làm bảo đảm. Song song, cần có khung khổ pháp lý cân bằng giữa bảo vệ dữ liệu và khuyến khích đổi mới, tránh gây khó cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Quan trọng hơn, Việt Nam phải đẩy mạnh đào tạo nhân lực công nghệ và pháp lý về sở hữu trí tuệ, dữ liệu và blockchain, nâng cao năng lực cơ quan thực thi để bảo vệ hiệu quả các loại tài sản vô hình.

Thu Hằng

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/bien-tai-san-vo-hinh-thanh-dong-luc-tang-truong-716173.html