Bình dân học vụ số: Mở đường cho cuộc cách mạng về chuyển đổi số
Trong buổi gặp mặt đại diện nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ngày 18/11/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu sớm phát động thực hiện phong trào bình dân học vụ số.
Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, đây là chỉ đạo có vai trò tạo đột phá, mở đường cho cuộc cách mạng về chuyển đổi số để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, thích ứng và kiên cường trước các thách thức trong thế giới nhiều biến động khó dự báo trước.
Những bài học còn nguyên giá trị
- Theo ông, chúng ta có thể học được gì từ phong trào Bình dân học vụ với thành tích thần tốc xóa nạn mù chữ để triển khai Bình dân học vụ số?
- Ngày 3/9/1945, trước thách thức của quốc nạn với 95% dân số mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mở chiến dịch “Chống nạn mù chữ” ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ. Nha bình dân học vụ được thành lập 5 ngày sau đó và phong trào đã nhanh chóng lan rộng khắp cả nước, triển khai như một chiến dịch.
Sau 5 năm (đến 30/6/1950), trong hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp, gần 12,2 triệu người biết chữ. 10 tỉnh với 80 huyện, hơn 1.400 xã và 7.200 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ.
Đi đôi với diệt “giặc dốt”, việc bổ túc văn hóa được tổ chức và đẩy mạnh, củng cố, nâng cao trình độ văn hóa trong dân, tạo nền tảng vững chắc về nhận thức, niềm tin, hành động cho công cuộc kháng chiến.
Chiến dịch bình dân học vụ là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống giặc dốt mà những bài học thành công dưới đây đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Bởi có khung pháp lý phù hợp và đột phá cho việc tổ chức thực hiện. Đó là Sắc lệnh số 17-SL “đặt ra một Bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam”; Sắc lệnh số 19-SL “trong toàn cõi Việt Nam sẽ thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân học buổi tối”; Sắc lệnh số 20-SL “trong khi chờ đợi lập được nền tiểu học cưỡng bức, việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người”.
Tiếp đó, có sự chỉ đạo sáng suốt của hệ thống chính trị, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với nhận định “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Bác không chỉ phát động chiến dịch “Chống nạn mù chữ”, ban hành các sắc lệnh nói trên, mà còn ra lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học.
Thứ ba, ý kiến chỉ đạo nêu trên được tổ chức thực hiện theo tiếp cận mà ngày nay gọi là tiếp cận toàn xã hội. Phong trào dựa vào sức dân là chính; người đi học được miễn phí; giáo viên không nhận lương.
Thứ tư, cùng với cách tiếp cận toàn xã hội trong huy động nguồn lực con người, nguồn lực tài chính cho chiến dịch xóa nạn mù chữ là việc tổ chức cách dạy cách học mọi nơi, mọi lúc, mọi kiểu, mà ngay nay gọi là không chính quy và phi chính quy.
Bài toán cũ, bối cảnh mới
- Bên cạnh những bài học trên, cần lưu ý gì trong triển khai “Bình dân học vụ số” khi bối cảnh đã hoàn toàn khác với phong trào Bình dân học vụ?
- Bình dân học vụ cách đây gần 80 năm và Bình dân học vụ số ngày nay là hai bài toán như nhau về mục đích và cách triển khai. Cả hai đều nhằm một mục đích là xóa tình trạng mù trong dân cư về một năng lực cốt lõi cho sự phát triển cá nhân và xã hội; cùng được triển khai theo cách tiếp cận toàn xã hội, thực sự “của dân, do dân, vì dân”.
Tuy nhiên, bối cảnh ngày nay đã khác nhiều so với gần 80 năm trước khi nước Việt Nam mới giành được độc lập trong sự bao vây của giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Vì thế, cả khung pháp lý và việc triển khai phong trào Bình dân học vụ số cũng ở tầm cao mới. Việc xóa mù số nằm trong một tiếp cận tổng thể và toàn diện về nâng cao năng lực số ở mọi cấp độ, đối tượng, từ người dân thường đến học sinh, sinh viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Việc tiếp cận bao gồm cả Chính phủ và toàn xã hội. Cụ thể:
Việc tiếp cận toàn chính phủ được thể hiện trong các văn bản của Thủ tướng Chính phủ với việc thành lập Ủy ban quốc gia về Chính phủ điện tử, Ban Chỉ đạo xây dựng chính phủ điện tử của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Riêng trong việc phổ cập kỹ năng số, từng nhiệm vụ cụ thể cũng được giao cho Bộ TT&TT, Bộ GD&ĐT, cùng các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp để tổ chức thực hiện, giám sát và đánh giá sao cho bất kỳ ai cũng có năng lực số phù hợp với yêu cầu công việc và đời sống.
Triển khai các nhiệm vụ trên, đến nay nền tảng khóa học trực tuyến mở đại chúng (MOOC) về kỹ năng số đã được Bộ TT&TT đưa vào hoạt động từ tháng 4/2022 gồm các khóa học phổ cập kỹ năng số cộng đồng, chuyển đổi số cơ bản, xã, đơn vị chuyên trách, đội ngũ nòng cốt xã, cách tiếp cận nền tảng trong chuyển đổi số.
Với cách tiếp cận toàn xã hội trong tổ chức thực hiện, tổ công nghệ số cộng đồng được thành lập ở các địa phương, dần hình thành Mạng lưới triển khai, hỗ trợ thiết thực, hiệu quả công tác chuyển đổi số trên toàn quốc.
Đặc trưng hoạt động của tổ công nghệ số cộng đồng tại địa phương là đi từng ngõ, gõ từng nhà, hướng dẫn từng người, giúp người dân được tiếp cận công nghệ theo cách đơn giản, thực hiện các thủ tục hành chính trực tuyến, mở tài khoản thanh toán điện tử, mua bán sản phẩm hàng hóa trên sàn thương mại điện tử, bảo vệ bản thân và gia đình trên môi trường mạng, tìm kiếm thông tin hiệu quả trên Internet. Nhờ vậy, tạo nền tảng nhận thức và kỹ năng cơ bản cho sự phát triển cá nhân và việc làm của người dân trong bối cảnh chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số.
Đây còn là mô hình sáng tạo có tác động trên nhiều phương diện khác. Về truyền thông, đó là cầu nối của chính quyền địa phương nhằm tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác chuyển đổi số đến nhân dân, góp phần xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số trên địa bàn.
Về kinh tế, để đào tạo được một người dùng số thì chi phí vào khoảng 5 USD nhưng nếu có sự tham gia của tổ công nghệ số cộng đồng thì con số này chỉ 2 USD, nhờ vậy gia tăng số người dân tiếp cận với môi trường số, đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp trong tiến trình chuyển sang kinh tế số.
Cần giải pháp ưu tiên để đánh chắc, tiến chắc
- Vận dụng các bài học Bình dân học vụ trước đây vào bối cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay để triển khai phong trào Bình dân học vụ số cần nhận diện và khắc phục các hạn chế, tồn tại gì và giải pháp nào để khắc phục?
- Các hạn chế, tồn tại cần khắc phục là khả năng gia tăng khoảng cách số do phạm vi tiếp cận chưa rộng rãi; chất lượng phổ cập kỹ năng số không đồng đều; hạn chế về nguồn lực; hạn chế về nhận thức; thiếu cơ chế phối hợp đồng bộ.
Vì thế, cần triển khai một số giải pháp trước mắt, gồm: Nâng cấp hạ tầng; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cho thành viên tổ công nghệ số cộng đồng; phát triển nội dung và tài liệu học tập; tăng cường hỗ trợ tài chính; hỗ trợ và khuyến khích cộng đồng, nâng cao nhận thức của người dân về lợi ích của kỹ năng số, tích cực tham gia học tập và ứng dụng công nghệ số; tăng cường cơ chế phối hợp, tạo nên một phong trào rộng khắp và hiệu quả.
Bên cạnh một số giải pháp cụ thể trước mắt trên, xin có một số khuyến nghị ở tầm vĩ mô như sau:
Một là, cần tổ chức đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị; làm rõ thành tựu, hạn chế, tồn tại, nguyên nhân trong thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực số, phổ cập kỹ năng số, hình thành mạng học tập mở của người Việt Nam, xây dựng văn hóa số trong cộng đồng. Trên cơ sở đó, rà soát, bổ sung, cập nhật chủ trương, chính sách, hành lang pháp lý về chuyển đổi số, trong đó Bình dân học vụ số.
Hai là, cùng với cách mạng về tinh gọn bộ máy, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số cùng Ban chỉ đạo chuyển đổi số của các bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; đảm bảo sự chỉ đạo thông suốt và phối hợp thực chất, đi đôi với cơ chế giám sát, đánh giá kết quả đầu ra trong tổ chức thực hiện.
Bộ GD&ĐT là cơ quan đầu mối, chủ trì, chịu trách nhiệm chính trong phát triển nhân lực số, bao gồm phổ cập kỹ năng số, phát triển năng lực số, xây dựng công dân số, phát triển nguồn nhân lực số chất lượng cao, tiến tới hình thành văn hóa số.
Ba là, cùng với việc tổ chức thực hiện theo tinh thần “của dân, do dân, vì dân”, thực sự phát huy vai trò chủ thể của người dân là trung tâm của chuyển đổi số theo hướng “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Khái niệm “dân” ở đây là tất cả ai có liên quan, từ người dân bình thường đến người học, nhà giáo, doanh nhân, thành viên của các đoàn thể, tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước...
Bốn là, trong phạm vi rộng lớn những nhiệm vụ, giải pháp phải thực hiện, cần xác định những nội dung cần ưu tiên, tập trung giải quyết đến nơi đến chốn, tạo cơ sở để chiến dịch xóa mù số đánh chắc, tiến chắc. Theo đó, cần nhanh chóng phổ cập điện thoại thông minh tới mỗi người dân, Internet cáp quang băng rộng tốc độ cao tới mỗi hộ gia đình, phổ cập dịch vụ điện toán đám mây tới mỗi doanh nghiệp, nhanh chóng khắc phục khoảng cách số giữa các vùng miền và tầng lớp dân cư.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền tảng dạy - học trực tuyến quốc gia theo hướng giáo dục mở, tạo điều kiện để mọi người dân được đến với giáo dục miễn phí trên không gian mạng, theo mọi trình độ, mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời.
Ban hành, tổ chức thực hiện Khung năng lực số áp dụng cho người dân trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó quy định rõ mức độ năng lực số phải đạt trong bình dân học vụ số tương thích với khái niệm của UNESCO, làm cơ sở để cập nhật, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các tổ công nghệ số cộng đồng.
Phát động thực hiện phong trào Bình dân học vụ số là cấp thiết. Để Bình dân học vụ số thành công, vai trò quyết định là sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; đồng thời cần phát huy được vai trò trung tâm, sự tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo của người dân, doanh nghiệp. Với khát vọng vươn mình của đất nước trong kỷ nguyên mới, trước mắt trong bối cảnh thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy, cần tư duy mới trong thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư để chiến dịch Bình dân học vụ số được triển khai quyết liệt, hiệu quả, sáng tạo hơn. -TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến