Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối xây dựng và triển khai Đề án ứng phó với Cơ chế СВАМ

Chính phủ giao Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối, chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng và triển khai các biện pháp hiệu quả ứng phó với Cơ chế CBAM, bao gồm việc xây dựng và triển khai Đề án ứng phó với Cơ chế СВАМ.

 Các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước bắt buộc phải chuyển đổi sản xuất theo hướng “xanh hóa” để có thể nâng cao sức cạnh tranh.

Các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước bắt buộc phải chuyển đổi sản xuất theo hướng “xanh hóa” để có thể nâng cao sức cạnh tranh.

Văn phòng Chính phủ vừa có Thông báo số 6082/VPCP-NN gửi tới các Bộ: Công Thương, Tài nguyên và Môi trường, Công an, Tư pháp, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngoại giao và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc triển khai các nhiệm vụ liên quan đến Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu. Tại thông báo này, Chính phủ giao Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối, chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng và triển khai các biện pháp hiệu quả ứng phó với Cơ chế CBAM, bao gồm việc xây dựng và triển khai Đề án ứng phó với Cơ chế СВАМ.

Theo đó, Chính phủ giao Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối, chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng và triển khai các biện pháp hiệu quả ứng phó với Cơ chế CBAM, bao gồm việc xây dựng và triển khai Đề án ứng phó với Cơ chế СВАМ.

Đồng thời, chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng các Bộ ngành liên quan triển khai các nhiệm vụ thuộc nhóm giải pháp về đàm phán, hợp tác quốc tế. Trong đó nhấn mạnh việc tiếp tục chủ động, tích cực đối thoại với EU, Vương quốc Anh trong khuôn khổ WTO, EVFTA, UKVFTA... để làm rõ sự phù hợp của CBAM với các cam kết quốc tế.

Bên cạnh đó, nghiên cứu khả năng mở rộng phạm vi áp dụng của CBAM, đặc biệt là các sản phẩm nông lâm nghiệp; nghiên cứu các cơ chế hỗ trợ, miễn trừ phù hợp cho Việt Nam; tiếp tục theo dõi các diễn biến tại các nước đối tác như Hoa Kỳ, Canada về việc áp dụng CBAM.

Cũng như nghiên cứu, đàm phán, gia nhập các diễn đàn, khuôn khổ quốc tế song phương và đa phương để tăng cường khả năng hợp tác và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với các chính sách, quy định của Việt Nam liên quan đến giá carbon.

Chính phủ cũng giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao nghiên cứu kinh nghiệm về giải pháp ứng phó của các nước cùng chịu tác động của CBAM, như: Indonesia, Nam Phi, Colombia… Tăng cường tham vấn, phối hợp lập trường với các nước đang và sẽ chịu tác động của CBAM tại các khuôn khổ song phương và đa phương như WTO, ASEAN...

Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành liên quan triển khai các hoạt động thuộc nhóm giải pháp vệ phổ biến, tuyên truyền, chẳng hạn tổ chức các khóa tập huấn cho các cơ quan, tổ chức, hiệp hội và doanh nghiệp... về CBAM. Bao gồm thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo đúng yêu cầu của cơ chế này. Việc bố trí kinh phí ngân sách nhà nước để triển khai các hoạt động này thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn.

Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, Hiệp hội ngành hàng triển khai các hoạt động thuộc nhóm giải pháp về hỗ trợ doanh nghiệp để thích ứng với các yêu cầu của CBAM. Chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và các Bộ ngành liên quan đánh giá, thẩm định các chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài liên quan đến CBAM.

Cũng theo văn bản, Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu việc xây dựng, áp dụng các chính sách liên quan đến giá carbon phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo tương thích với các chính sách liên quan đến giá carbon trên thế giới, để áp dụng vào thời điểm thích hợp, bao gồm: việc xây dựng, phát triển và vận hành thị trường carbon trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp mua bù tín chỉ carbon để được miễn, giảm chi phí mua chứng chỉ CBAM khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường EU.

Ngoài ra, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các Bộ ngành triển khai các giải pháp tín dụng xanh, trong đó có tín dụng cho các dự án đáp ứng yêu cầu của CBAM thuộc Danh mục phân loại xanh.

Giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các Bộ ngành liên quan nghiên cứu phương án sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, EVFTA, UKVFTA nhằm giảm thiểu các tác động của CBAM đối với Việt Nam và đánh giá các mặt mạnh, yếu của Việt Nam về pháp lý.

EU quyết định sẽ cân bằng giá carbon giữa sản phẩm nội địa và nhập khẩu bằng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). EU cũng tin rằng, một Cơ chế xanh đối với hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài EU thông qua hệ thống định giá hợp lý lượng carbon thải ra trong quá trình sản xuất sẽ khuyến khích ngành công nghiệp sạch hơn ở các nước ngoài EU.

Về bản chất, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (The EU's Carbon Border Adjustment Mechanism - CBAM) sẽ đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào thị trường các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất tại nước sở tại.

Về cơ chế cụ thể, nhà nhập khẩu hàng vào EU theo Cơ chế CBAM đăng ký với cơ quan quản lý trong nước và mua chứng chỉ CBAM. Giá của chứng chỉ dựa vào giá tín chỉ phát thải hàng tuần của Hệ thống thương mại khí thải của Liên minh châu Âu (EU ETS). Nhà nhập khẩu trong EU kê khai hàm lượng phát thải trong hàng nhập khẩu và giao nộp số lượng tín chỉ tương ứng của mỗi năm. Nếu nhà nhập khẩu chứng minh được giá carbon đã được thanh toán khi sản xuất hàng nhập khẩu, lượng phát thải tương ứng có thể được khấu trừ.

EU phân loại hàng hóa thành 2 loại để tính suất phát thải thực tế gồm: Hàng hóa đơn giản và hàng hóa phức tạp. Hàng hóa phức tạp sẽ tính toán cả lượng phát thải của nguyên liệu đầu vào. Như vậy, các doanh nghiệp phải nhận thức được rằng, phát thải được tính cho hàng hóa không chỉ đơn giản phát sinh trong quá trình sản xuất, mà còn cả từ nguyên liệu, nghĩa là các doanh nghiệp phải báo cáo chi tiết về hàng hóa đầu vào.

Việc đánh thuế này là trụ cột quan trọng trong các chính sách khí hậu của châu Âu và cũng là một trong những cơ chế mà EU khuyến khích các đối tác thương mại khử carbon trong lĩnh vực sản xuất.

Việt Nam là đối tác đứng thứ 11 về hàng hóa nhập khẩu vào EU. Dù hiện tại phần lớn hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam không thuộc các nhóm này nhưng phạm vi có thể sẽ mở rộng và bao gồm nhiều sản phẩm hơn trong tương lai.

Mặc dù nhằm mục đích chống biến đổi khí hậu, CBAM sẽ tạo thêm chi phí đáng kể đối với các hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt nếu Cơ chế này được mở rộng sang các lĩnh vực khác trong tương lai.

Minh Thành

Nguồn Kinh tế Môi trường: https://kinhtemoitruong.vn/bo-cong-thuong-la-co-quan-dau-moi-xay-dung-va-trien-khai-de-an-ung-pho-voi-co-che-cbam-92536.html