Bộ GTVT lý giải suất đầu tư cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2021-2025
Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể cho rằng sơ bộ tổng mức đầu tư cao tốc Bắc-Nam chỉ là cơ sở để ước tính chi phí đầu tư xây dựng, xây dựng kế hoạch vốn.
Bộ Giao thông Vận tải vừa có lý giải về sơ bộ tổng mức đầu tư được đề cập trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án xây dựng công trình đường cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025.
Sơ bộ tổng mức đầu tư chỉ mang tính ‘đường bao’
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, ngày 6/1, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể đã ký báo cáo gửi Quốc hội việc tiếp thu, giải trình báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế về dự án xây dựng công trình đường cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025.
Theo Bộ trưởng Thể, sơ bộ tổng mức đầu tư dự án cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đã được tính toán trên cơ sở suất vốn đầu tư xây dựng, dữ liệu chi phí của các dự án tương tự về loại, cấp công trình, quy mô, công suất hoặc năng lực phục vụ, tính chất dự án đã thực hiện (đặc biệt là các dự án đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc-Nam phía Đông đang triển khai).
Dẫn chứng cụ thể, báo cáo nghiên cứu khả thi được duyệt giai đoạn 2017-2020, 4 dự án thành phần đoạn Mai Sơn (Ninh Bình)-Bãi Vọt (Hà Tĩnh) có suất đầu tư bình quân 190 tỷ đồng/km.
Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi giai đoạn 2021-2025, 10 dự án thành phần trên đoạn Bãi Vọt (Hà Tĩnh)-Cam Lộ (Quảng Trị) và đoạn Quảng Ngãi-Nha Trang có suất đầu tư bình quân 194 tỷ đồng/km. Đoạn Mỹ Thuận-Cần Thơ có suất đầu tư bình quân 210 tỷ đồng/km; đoạn Cần Thơ-Cà Mau có suất đầu tư bình quân 253 tỷ đồng/km mặc dù đoạn Mỹ Thuận-Cần Thơ và Cần Thơ-Cà Mau có đặc điểm địa chất tương đồng, nhưng số lượng các công trình cầu trên đoạn Mỹ Thuận-Cần Thơ chỉ chiếm 4,4% chiều dài, thấp hơn nhiều so với 9,2% chiều dài tuyến trên đoạn Cần Thơ-Hậu Giang.
Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật, Bộ trưởng Thể cho rằng sơ bộ tổng mức đầu tư trong bước nghiên cứu tiền khả thi là cơ sở để ước tính chi phí đầu tư xây dựng, xây dựng kế hoạch vốn; tổng mức đầu tư được phê duyệt trong bước nghiên cứu khả thi làm cơ sở để bố trí vốn. Tùy thuộc vào từng giai đoạn, quy định về mức độ chính xác đối với tổng mức đầu tư cũng khác nhau, nên việc so sánh như trên (giữa bước nghiên cứu tiền khả thi so với bước nghiên cứu khả thi) cũng chỉ mang tính chất tương đối.
“Sơ bộ tổng mức đầu tư bước nghiên cứu tiền khả thi luôn mang tính ‘đường bao’ để bảo đảm tổng mức đầu tư bước nghiên cứu khả thi không bị vượt, không phải điều chỉnh chủ trương đầu tư theo quy định pháp luật. Chính vì vậy, sơ bộ tổng mức đầu tư của dự án được xác định theo đúng quy định của pháp luật về xây dựng, đáp ứng độ tin cậy trong bước nghiên cứu tiền khả thi,” Bộ trưởng Thể nhấn mạnh.
Trong bước tiếp theo, Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ Giao thông Vận tải tổ chức khảo sát chi tiết về địa hình, địa chất, thủy văn, điều kiện cung cấp vật liệu xây dựng, trên cơ sở khối lượng theo thiết kế cơ sở, đơn giá, định mức, các chính sách của nhà nước, làm cơ sở để xây dựng tổng mức đầu tư bảo đảm chặt chẽ theo quy định của pháp luật về quản lý chi phí đầu tư xây dựng, làm cơ sở để bố trí vốn đầu tư.
Có thể thông xe kỹ thuật toàn dự án vào cuối 2025
Theo Bộ trưởng Thể, thực tiễn triển khai cho thấy các dự án đường bộ cao tốc có quy mô, yêu cầu kỹ thuật phức tạp, tổng mức đầu tư lớn, thời gian chuẩn bị và hoàn thiện các thủ tục đầu tư theo quy định pháp luật để khởi công dự án cần khoảng 3 năm (phê duyệt chủ trương đầu tư, phê duyệt dự án đầu tư, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, dự toán, đấu thầu lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, đền bù giải phóng mặt bằng…), thời gian thi công hoàn thành công trình từ 2-3 năm.
Chính vì vậy, người đứng đầu ngành Giao thông Vận tải thừa nhận phần lớn các dự án đường bộ cao tốc khó có thể hoàn thành trong một kỳ trung hạn.
Thực tế triển khai các dự án cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, sau khi Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư (tháng 11/2017), Bộ Giao thông Vận tải đã nỗ lực triển khai ngay các thủ tục theo quy định, mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, sự vào cuộc tích cực của các bộ, ngành và địa phương liên quan nhưng đến tháng 10/2018 mới phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi và đến tháng 9/2019 mới khởi công được gói thầu đầu tiên.
Trên cơ sở đó, Chính phủ dự kiến tiến độ triển khai chuẩn bị dự án năm 2021-2022; thiết kế kỹ thuật, dự toán và thực hiện giải phóng mặt bằng, tái định cư năm 2022-2023; khởi công năm 2023, cơ bản hoàn thành năm 2025.
Với tiến độ nêu trên, trường hợp không phát sinh các tình huống phức tạp đến cuối năm 2025 có thể thông xe kỹ thuật toàn bộ các dự án thành phần và đưa vào khai thác một số đoạn tuyến, các đoạn có yêu cầu kỹ thuật phức tạp (như công trình cầu, hầm lớn, nền đường phải xử lý đất yếu…) sẽ hoàn thành đưa vào khai thác năm 2026.
Từ thực tế triển khai các dự án giai đoạn 2017-2020 cho thấy, để hoàn thành dự án đúng theo tiến độ nêu trên là nhiệm vụ hết sức khó khăn, tuy nhiên đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng nên phải quyết tâm tổ chức thực hiện thành công, do đó, Chính phủ xác định cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; việc tổ chức triển khai phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ./.