Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Sự đồng thuận, yếu tố then chốt quyết định độ hồi phục kinh tế
Khu vực doanh nghiệp luôn có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Do đó, trong Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình vừa được Chính phủ ban hành sẽ tập trung vào các nhóm giải pháp để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong những ngành nghề bị tác động mạnh bởi dịch bệnh COVID-19 và những nhóm ngành trọng tâm ưu tiên phát triển để tạo đà phục hồi cho kinh tế.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, sự đồng lòng, đồng thuận của người dân và doanh nghiệp đối với các quyết sách, quyết định của Chính phủ đóng vai trò quan trọng, quyết định sự thành bại của chính sách đó. Để hiểu rõ hơn về những khó khăn, thách thức cũng như các giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2022, Phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng xung quanh nội dung này.
Thưa Bộ trưởng, năm 2022, cộng đồng doanh nghiệp đặt nhiều niềm tin vào chương trình mở cửa thích ứng an toàn, phục hồi lại kinh tế. Sự đồng thuận của hệ thống chính trị, doanh nghiệp, người dân có phải là yếu tố then chốt quyết định mức độ hồi phục của kinh tế hay không?
Tôi cho rằng, ở mọi quốc gia, sự đồng lòng, đồng thuận của người dân và doanh nghiệp đối với các quyết sách, quyết định của Chính phủ đóng vai trò quan trọng, quyết định sự thành bại của chính sách đó.
Trong bối cảnh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do dịch bệnh COVID-19 gây ra, nhưng ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam đã được phát huy hơn bao giờ hết. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chỉ đạo kịp thời, quyết liệt về tăng cường phòng, chống dịch, chăm lo đời sống, bảo vệ sức khỏe nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội; ban hành kịp thời nhiều chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19... Các cấp, các ngành, các địa phương và nhân dân cả nước đã chủ động, kịp thời thực hiện các biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt để phòng, chống, ngăn chặn dịch bệnh, bước đầu đã thu được một số kết quả tích cực.
Về phía cộng đồng doanh nghiệp, ngay từ đầu năm 2020, khi dịch bệnh COVID-19 tác động nghiêm trọng tới hoạt động sản xuất kinh doanh, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân đã nêu cao tinh thần chia sẻ đồng hành cùng đất nước, vượt khó, tự lực, tự cường, nỗ lực thích ứng với hoàn cảnh khó khăn để duy trì sản xuất kinh doanh và việc làm cho người lao động.
Ở những nơi, những thời điểm dịch bệnh chưa bị ảnh hưởng nhiều, các doanh nghiệp đã nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh và ứng dụng các giải pháp, công nghệ số để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; đặc biệt là tập trung khai thác thị trường nội địa, nhanh nhạy nắm bắt cơ hội kinh doanh mới…
Chính vì vậy, tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận của toàn bộ hệ thống chính trị, doanh nghiệp, người dân luôn là yếu tố then chốt quyết định mức độ hồi phục của kinh tế trong thời gian tới.
Xin Bộ trưởng cho biết các giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp sẽ được triển khai thực hiện trong Chương trình phục hồi kinh tế và phát triển kinh tế giai đoạn 2022-2023 như thế nào?
Khu vực doanh nghiệp luôn có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách nhà nước, kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo và ổn định xã hội. Đây là mắt xích quan trọng trong mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị và là một trong những lực lượng nòng cốt trong việc tạo ra của cải, vật chất xã hội.
Để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do tác động tiêu cực của dịch COVID-19, hỗ trợ doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh, hồi phục và tạo đà phát triển trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhiều giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp và sẽ được triển khai thực hiện trong Chương trình phục hồi kinh tế và phát triển kinh tế giai đoạn 2022-2023.
Cụ thể là thực hiện hiệu quả các chính sách, giải pháp hỗ trợ tăng tính thanh khoản cho doanh nghiệp. Theo đó, tiếp tục thực hiện chính sách giãn, hoãn thời gian nộp thuế; giảm thuế, phí, các khoản phải nộp; cắt giảm chi phí. Thực hiện chính sách cấp bù lãi suất cho các doanh nghiệp trong những ngành nghề bị tác động mạnh bởi dịch bệnh COVID-19 và những nhóm ngành trọng tâm ưu tiên phát triển để tạo đà phục hồi cho kinh tế.
Cùng với đó, hỗ trợ tái cấu trúc doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nâng cao năng lực cạnh tranh bền vững; đẩy mạnh triển khai hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hỗ trợ tái cấu trúc lao động; thu hút, đào tạo lại lao động cho doanh nghiệp; tái cấu trúc doanh nghiệp và tài chính doanh nghiệp; quản trị rủi ro; phát triển kinh doanh bền vững, kinh tế xanh.
Bên cạnh đó là tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng thuận lợi cho doanh nghiệp: Rà soát, sửa đổi các quy định chồng chéo, mâu thuẫn để tháo gỡ vướng mắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công khai, minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các cơ chế chính sách để định hướng cho doanh nghiệp đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch phát triển và bảo đảm quyền lợi đầu tư, giảm rủi ro kinh doanh. Tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, nhất là trong việc thực hiện các dự án, công trình theo hình thức hợp tác công - tư.
Quá trình phục hồi kinh tế năm 2022 sẽ gặp không ít thách thức. Xin Bộ trưởng cho biết, đâu là những điểm nghẽn, nút thắt trong quá trình phục hồi và phát triển kinh tế năm 2022?
Dịch COVID-19 đã gây khó khăn không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn cả vấn đề xã hội. Trong năm 2021, có 119,8 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh; trong đó, có gần 55 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi nền kinh tế.
Thực hiện phương châm “tính mạng của nhân dân là trên hết, trước hết” nhưng các đợt giãn cách xã hội kéo dài đã gây đứt gãy chuỗi lưu thông hàng hóa và lao động. Thiếu việc làm cũng dẫn đến cắt giảm chi tiêu và tổng cầu của nền kinh tế giảm sâu.
Giải ngân vốn đầu tư công đạt 77,8% kế hoạch năm, giảm 5% so với năm 2020. Trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức, đạt được kết quả như vậy là rất tích cực; trong đó đầu tư công có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm. Tuy vậy, ngoài nguyên nhân như: giá sắt thép, vật liệu xây lắp... tăng cao, còn đó một số quy định không phù hợp và thiếu tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cá nhân và tổ chức liên quan.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu đạt con số ấn tượng với 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm 2020, nhưng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước chỉ đạt gần 88,71 tỷ USD, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu và chỉ tăng 13,4% so với mức tăng 21,1% của khu vực đầu tư nước ngoài (FDI). Kinh tế phụ trợ và liên kết giữa khu vực kinh tế trong nước với khu vực FDI còn yếu và lỏng lẻo.
Nông nghiệp luôn là bệ đỡ trong những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế cũng gặp không ít thách thức trong năm 2021; tuy nhiên, giá vật tư nông nghiệp và thức ăn chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản tăng cao; dịch bệnh đối với chăn nuôi lợn và gia cầm diễn biến phức tạp; nhu cầu thị trường chưa phục hồi, giá sản phẩm đầu ra của nông nghiệp và thủy sản ở mức thấp khiến người chăn nuôi thua lỗ.
Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Điều này sẽ khiến cho giá cả hàng hóa tăng cao, tạo áp lực lên lạm phát nền kinh tế. Do tổng cầu của nền kinh tế giảm sâu nên chỉ số giá tiêu dùng năm 2021 ở mức thấp (1,84%) so với mục tiêu 4%.
Tuy vậy, áp lực lạm phát của năm 2022 đối với kinh tế nước ta cũng đang hiện hữu. Giá nguyên vật liệu, hàng hóa và dịch vụ thế giới tăng cao; giá dầu thô còn tiếp tục tăng trong những năm tới do nhu cầu tăng mạnh, trong khi nguồn cung hạn chế và thị trường dầu thô trải qua thời kỳ thiếu hụt nguồn cung dài nhất trong nhiều thập kỷ qua. Thiếu hụt đầu tư thượng nguồn trong khai thác dầu khi nhu cầu ngày một tăng là chỉ báo về giá dầu cao sẽ kéo dài trong ít nhất trong năm tới.
Kinh tế nước ta phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu, với tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên vật liệu của toàn nền kinh tế là 37%. Chi phí xăng dầu chiếm khoảng 3,52% trong tổng chi phí sản xuất của toàn nền kinh tế, nhất là khi giá xăng dầu thế giới tăng sẽ làm tăng giá nguyên vật liệu nhập khẩu và cả nguyên nhiên vật liệu trong nước.
Xin Bộ trưởng cho biết, một số giải pháp nhằm phục hồi kinh tế Việt Nam trong năm 2022?
Năm 2022, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư trong trung hạn. Để tận dụng được những cơ hội mới nhằm phục hồi kinh tế Việt Nam năm 2022, theo tôi, cần thực hiện một số giải pháp.
Trước mắt, Việt Nam cần triển khai, thực hiện tốt, an toàn chiến dịch bao phủ diện rộng cho toàn dân tiêm vaccine. Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương khẩn trương hoàn thành tiêm vaccine cho toàn dân trong độ tuổi tiêm chủng; ưu tiên tiêm cho lực lượng lao động khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể để hai khu vực sản xuất này sớm phục hồi nhanh sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, kết hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, chú trọng đến chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể vượt qua khó khăn; đồng thời, nâng cao năng lực giải ngân và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các ngành, lĩnh vực then chốt, các vùng động lực, cực tăng trưởng, các dự án lớn, quan trọng của quốc gia, dự án kết nối liên vùng…
Cùng với đó, thực hiện nhanh và hiệu quả việc cơ cấu lại nền kinh tế. Cơ cấu lại nội bộ từng ngành theo hướng phát huy lợi thế so sánh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; tập trung nội lực, thúc đẩy động lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao.
Ngoài ra, Chính phủ cần chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa, giảm áp lực lạm phát; đồng thời tăng cường triển khai và thực hiện chuyển đổi số trong cải cách thể chế và thủ tục hành chính.
Tiếp đến là cần tạo dựng chính sách liên thông, kết nối các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ đi kèm với sự đồng thuận tại các chính quyền địa phương, giải quyết tình trạng “cát cứ” không thống nhất gây cản trở.
Về xuất nhập khẩu, cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh và trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia để tham mưu Chính phủ các giải pháp điều hành ứng phó với các yếu tố bất lợi; chú trọng triển khai các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) nói chung, nhất là các FTA thế hệ mới nói riêng; tổ chức xúc tiến thương mại trực tuyến, quan tâm thúc đẩy phát triển logistics…
Đẩy mạnh lưu thông phân phối hàng hóa giữa các địa phương nhằm bảo đảm cung ứng nguồn hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu người dân; tăng cường các hoạt động kết nối cung cầu và xúc tiến thương mại thị trường trong nước; đồng thời, đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động lưu thông, phân phối hàng hóa.
Xin cám ơn Bộ trưởng!