Bộ trưởng Trần Đức Thắng: Nông nghiệp xanh đã chuyển từ định hướng sang hành động thực chất

Ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam vẫn giữ vững vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, với tăng trưởng ổn định, xuất khẩu lập kỷ lục mới và những chuyển biến rõ nét theo hướng xanh, bền vững.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng. Ảnh: TTXVN

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng. Ảnh: TTXVN

Năm 2025 khép lại trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến khắc nghiệt và dị thường..., song ngành nông nghiệp và môi trường Việt Nam vẫn giữ vững vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, với tăng trưởng ổn định, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản lập kỷ lục 70 tỷ USD và đặc biệt là những chuyển biến rõ nét theo hướng xanh, bền vững. Phóng viên TTXVN đã phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng để làm rõ những kết quả nổi bật, bài học ứng phó thiên tai và định hướng trọng tâm của ngành trong thời gian tới.

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, năm 2025 khép lại với nhiều dấu ấn quan trọng của ngành nông nghiệp và môi trường. Xin Bộ trưởng khái quát những kết quả nổi bật nhất trong năm qua của ngành?

Bộ trưởng Trần Đức Thắng: Nhìn lại năm 2025, có thể nói đây là một năm khó khăn, nhiều biến động nhưng cũng cho thấy sự nỗ lực, quyết tâm, quyết liệt, hiệu quả của toàn ngành. Điều này được thể hiện rõ khi bối cảnh kinh tế thế giới bất ổn, xung đột địa chính trị kéo dài, rào cản thương mại gia tăng và thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến khắc nghiệt và dị thường, nhưng nông nghiệp và môi trường vẫn giữ vững vai trò là trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế, góp phần ổn định đời sống xã hội và sinh kế của hàng triệu người dân.

Nổi bật trước hết là kết quả tăng trưởng và xuất khẩu; trong đó, GDP toàn ngành cả năm đạt trên 3,9%, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 70 tỷ USD, vượt xa mục tiêu 65 tỷ USD. Những con số này không chỉ phản ánh quy mô mà còn cho thấy năng lực thích ứng và khả năng cạnh tranh ngày càng tốt của sản xuất nông nghiệp trước những biến động bên ngoài.

Bên cạnh kết quả về kinh tế, năm 2025 cũng là năm ngành có bước chuyển mạnh về tổ chức và thể chế. Sau khi hợp nhất hai Bộ, công tác sắp xếp bộ máy được triển khai quyết liệt, tinh gọn đầu mối, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, đi đôi với hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường phân cấp, phân quyền và cải cách thủ tục hành chính. Điều này giúp chính sách đi vào cuộc sống nhanh hơn, tạo thuận lợi hơn cho người dân, doanh nghiệp và địa phương trong tổ chức thực hiện.

Một điểm nhấn quan trọng khác là trụ cột môi trường và phát triển xanh ngày càng được củng cố. Công tác bảo vệ, phát triển rừng đạt kết quả tích cực; quản lý tài nguyên đất, nước, khoáng sản, bảo vệ môi trường có chuyển biến thực chất; nhiều “điểm nóng” ô nhiễm từng bước được kiểm soát. Các chương trình xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững tiếp tục phát huy hiệu quả, tạo nền tảng để ngành từng bước chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu, từ tăng trưởng truyền thống sang tăng trưởng xanh, tuần hoàn và bền vững.

Phóng viên:Song song với tăng trưởng, ngành nông nghiệp và môi trường đã chú trọng chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng xanh, bền vững. Xin Bộ trưởng cho biết những chuyển biến cụ thể trong triển khai nông nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn thời gian qua?

Bộ trưởng Trần Đức Thắng: Tôi có thể khái quát những chuyển biến trong triển khai nông nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn trên ba phương diện. Thứ nhất là chuyển mạnh về tư duy và thể chế phát triển xanh. Trong những năm qua, các yêu cầu về nông nghiệp sinh thái, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải đã được tích hợp đồng bộ vào chiến lược, quy hoạch, chương trình và hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn của ngành. Đây là nền tảng quan trọng để định hướng sản xuất theo hướng xanh ngay từ khâu quy hoạch và tổ chức thực hiện, thay vì xử lý môi trường một cách bị động, sau khi phát sinh ô nhiễm.

Thứ hai là chuyển dịch mô hình sản xuất theo hướng xanh, tuần hoàn ở các ngành hàng chủ lực. Trong trồng trọt, lâm nghiệp, thủy sản và xây dựng nông thôn mới, nhiều mô hình sử dụng tiết kiệm tài nguyên, giảm hóa chất đầu vào, tái sử dụng phụ phẩm và gắn sản xuất với chế biến, thị trường đã được triển khai và nhân rộng. Các mô hình này không chỉ góp phần giảm phát thải, bảo vệ hệ sinh thái mà còn nâng cao giá trị gia tăng và thu nhập cho người nông dân.

Thứ ba là đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số. Công nghệ số, dữ liệu lớn, viễn thám, truy xuất nguồn gốc, cùng các giải pháp canh tác thông minh đang được áp dụng ngày càng rộng rãi trong quản lý sản xuất, tài nguyên và môi trường. Đây là công cụ then chốt giúp tối ưu đầu vào – đầu ra, đo lường phát thải và từng bước khép kín vòng đời sản phẩm, hiện thực hóa kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.

Có thể khẳng định, tuy chưa đạt được kết quả toàn diện như mong muốn của người dân, nhưng nông nghiệp xanh và kinh tế tuần hoàn đã chuyển từ định hướng sang hành động thực chất. Thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển thị trường carbon, tín dụng xanh, khuyến khích doanh nghiệp và nông dân mở rộng các mô hình sản xuất xanh, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam và thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0”.

Ruộng lúa canh tác thí điểm Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp của thành phố Cần Thơ. Ảnh: Thu Hiền - TTXVN

Ruộng lúa canh tác thí điểm Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp của thành phố Cần Thơ. Ảnh: Thu Hiền - TTXVN

Phóng viên: Năm 2025 ghi nhận diễn biến thời tiết, thiên tai dị thường và cực đoan. Bộ trưởng đánh giá như thế nào về năng lực ứng phó của ngành; đâu là những bài học kinh nghiệm rút ra; định hướng, giải pháp trọng tâm thời gian tới nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả dự báo, cảnh báo và phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu?

Bộ trưởng Trần Đức Thắng: Năm 2025 thực sự là một năm thiên tai khốc liệt, hiếm gặp cả về tần suất, cường độ và mức độ bất thường. Trên biển Đông đã xuất hiện 21 cơn bão, áp thấp nhiệt đới; nhiều đợt mưa lớn gây lũ vượt mức lịch sử trên hàng loạt lưu vực sông; ngập lụt và sạt lở xảy ra trên diện rộng, gây thiệt hại nặng nề về người và kinh tế. Đây là phép thử rất lớn đối với năng lực phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu của chúng ta.

Trước hết, có thể khẳng định năng lực chỉ đạo, điều hành và ứng phó của ngành đã được nâng lên rõ rệt. Bộ và các địa phương đã chủ động xây dựng kịch bản, triển khai phương châm “4 tại chỗ” thực chất hơn, đặt bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân lên trên hết. Hệ thống trực ban, theo dõi, chỉ đạo ứng phó được duy trì liên tục 24/24 giờ, bám sát diễn biến thực tế của thiên tai.

Hệ thống đê điều, hồ đập và công trình phòng chống thiên tai cơ bản được vận hành an toàn. Việc chuẩn bị từ sớm các trọng điểm xung yếu, chủ động gia cố và xử lý kịp thời sự cố đã góp phần ngăn chặn nguy cơ xảy ra thảm họa lớn. Công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn tiếp tục đóng vai trò then chốt. Các bản tin về bão, mưa lớn, lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn được phát hành kịp thời, giúp các cấp, các ngành chủ động sơ tán dân, bảo vệ sản xuất và giảm thiểu thiệt hại. Đồng thời, công tác truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về phòng chống thiên tai được đẩy mạnh, tạo sự vào cuộc đồng bộ của toàn xã hội.

Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy thiên tai đang vượt nhanh khỏi các ngưỡng “thiết kế” truyền thống, đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách làm. Bài học lớn nhất rút ra là không thể chỉ ứng phó bị động, mà phải chuyển mạnh sang quản trị rủi ro, phòng ngừa từ sớm, từ xa, dựa trên khoa học, dữ liệu và sự tham gia của cộng đồng.

Thời gian tới, ngành sẽ tập trung vào một số định hướng, giải pháp trọng tâm, như: Hiện đại hóa hệ thống dự báo, cảnh báo, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn để nâng cao độ chính xác, cảnh báo sớm và theo khu vực, đối tượng cụ thể. Hoàn thiện quy hoạch và đầu tư hạ tầng phòng chống thiên tai thích ứng biến đổi khí hậu, ưu tiên các vùng “tuyến đầu” như Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, miền núi phía Bắc. Nâng cao năng lực quản lý rủi ro thiên tai ở cơ sở, gắn phòng chống thiên tai với phát triển sinh kế bền vững và xây dựng nông thôn mới an toàn. Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng, coi người dân là chủ thể, là lực lượng trực tiếp tham gia phòng ngừa và ứng phó.

Quan điểm xuyên suốt của Bộ là: chủ động thích ứng, lấy phòng ngừa là chính, giảm thiểu tối đa thiệt hại do thiên tai gây ra, bảo vệ tính mạng, tài sản của người dân và tạo nền tảng an toàn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt.

Phóng viên:Xin Bộ trưởng cho biết những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm của ngành nhằm tiếp tục giữ vững đà tăng trưởng xuất khẩu nông, lâm, thủy sản, đáp ứng tiêu chuẩn và mở rộng thị trường trong thời gian tới?

Bộ trưởng Trần Đức Thắng: Để giữ vững đà tăng trưởng xuất khẩu trong bối cảnh tiêu chuẩn thị trường ngày càng cao và cạnh tranh gay gắt, ngành nông nghiệp và môi trường xác định triển khai đồng bộ một số nhóm giải pháp trọng tâm như sau:

Trước hết là hoàn thiện thể chế, tiêu chuẩn và hàng rào chất lượng. Bộ tiếp tục rà soát, sửa đổi các quy định chuyên ngành theo yêu cầu hội nhập; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, kiểm dịch, truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm theo chuẩn các thị trường lớn; đồng thời tăng cường thanh tra, giám sát để bảo đảm chất lượng hàng xuất khẩu ngay từ gốc.

Thứ hai là cơ cấu lại sản xuất gắn với nông nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn và chuỗi giá trị. Ngành tập trung phát triển vùng nguyên liệu tập trung, đạt chuẩn; triển khai các chương trình lớn như 1 triệu ha lúa chất lượng cao phát thải thấp, thủy sản bền vững, lâm nghiệp bền vững có chứng chỉ, qua đó vừa nâng cao chất lượng, vừa đáp ứng yêu cầu về môi trường và truy xuất nguồn gốc.

Thứ ba là đa dạng hóa thị trường và nâng tầm ngoại giao nông nghiệp. Bên cạnh việc giữ vững các thị trường truyền thống, Bộ chủ động mở rộng các thị trường tiềm năng, tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA); tăng cường đàm phán, tháo gỡ rào cản kỹ thuật, xử lý kịp thời các vấn đề phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích chính đáng của nông sản Việt Nam.

Thứ tư là phát triển chế biến sâu, logistics và chuyển đổi số. Ngành sẽ đẩy mạnh hỗ trợ đầu tư vào chế biến, bảo quản, logistics hiện đại; ứng dụng khoa học - công nghệ và công nghệ số trong toàn bộ chuỗi giá trị, từ sản xuất đến tiêu thụ, nhằm nâng giá trị gia tăng và giảm chi phí.

Thứ năm là bảo đảm an toàn dịch bệnh, chất lượng và tính ổn định của chuỗi cung ứng. Bộ tăng cường phòng chống dịch bệnh, chủ động ứng phó thiên tai, bảo đảm giao hàng đúng hợp đồng, giữ uy tín của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Xuyên suốt các giải pháp là gắn xuất khẩu với nâng cao thu nhập cho nông dân và phát triển nông thôn theo hướng xanh, sinh thái, hiện đại, từng bước đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững và hùng cường.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

Bích Hồng/Bnews/vnanet.vn

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/bo-truong-tran-duc-thang-nong-nghiep-xanh-da-chuyen-tu-dinh-huong-sang-hanh-dong-thuc-chat/402775.html