Bức tranh đối lập giữa tăng trưởng tín dụng và NIM ngành ngân hàng

Trong bối cảnh chính sách tiền tệ tiếp tục nới lỏng, tín dụng tăng mạnh trở lại và lan tỏa đều giữa các nhóm ngân hàng, phản ánh nhu cầu vốn phục hồi rõ nét trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trái ngược với đà tăng trưởng đó, NIM toàn ngành lại tiếp tục suy giảm.

Tín dụng ngân hàng phục hồi mạnh và lan tỏa đều giữa các nhóm

Biên lãi ròng (NIM) tiếp đà sụt giảm cho thấy bài toán lợi nhuận vẫn là thách thức lớn, khi lãi suất đầu ra sụt giảm và cơ cấu cho vay dịch chuyển. Hai xu hướng đối lập này là những chỉ dẫn quan trọng định hình chiến lược vận hành của hệ thống ngân hàng trong phần còn lại của năm.

Sau giai đoạn 2022 - 2023 trầm lắng vì chu kỳ suy giảm tín dụng và tác động dây chuyền từ khủng hoảng bất động sản, hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu quay lại quỹ đạo phục hồi. Bối cảnh vĩ mô thuận lợi hơn giai đoạn trước rất nhiều, từ kiểm soát lạm phát, phục hồi sản xuất đến sự cải thiện niềm tin tiêu dùng và đầu tư, tạo điều kiện để tín dụng trở thành động lực tăng trưởng quan trọng cho nền kinh tế.

 Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Nguồn: Tác giả tổng hợp.

Ngân hàng Nhà nước cũng thực hiện nhiều bước đi chính sách, như nới room tín dụng, giữ mặt bằng lãi suất thấp và phân bổ linh hoạt hạn mức theo "sức khỏe" tài chính của từng tổ chức tín dụng. Những yếu tố này giúp tín dụng khởi sắc sớm ngay từ quý đầu tiên của năm.

Tuy nhiên, bài toán cân đối giữa lãi suất đầu vào và đầu ra lại đang dần trở nên khó khăn hơn đối với ngành ngân hàng, khi NIM tiếp tục sụt giảm về vùng đáy mới.

Tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống tính đến ngày 30/6/2025 đạt hơn 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024. Đây cũng là mức tăng cao nhất nửa đầu năm trong vòng 5 năm trở lại đây. Mức tăng này không chỉ cao hơn gấp đôi so với cùng kỳ năm 2024, mà còn là dấu hiệu rõ ràng của việc hồi phục nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Đặc biệt, sự tăng trưởng không đến từ cú chạy nước rút ở quý IV như thường thấy, mà được phân bổ đều trong hai quý đầu năm.

Hai mặt của bức tranh ngành ngân hàng

"Tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ là một chỉ dấu quan trọng cho sự hồi phục của dòng vốn trong nền kinh tế, nhưng đó mới chỉ là một nửa bức tranh. Mặt còn lại và cũng là phần then chốt với hiệu quả vận hành của các ngân hàng, nằm ở NIM, yếu tố quyết định lợi nhuận cốt lõi. Trong khi dư nợ tín dụng tăng đều đặn, thì NIM lại đang dần co hẹp, phản ánh sức ép từ chính sách điều hành lãi suất, cấu trúc tài sản và chiến lược cạnh tranh".

Ông Lê Hoài Ân, Chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng.

Sự điều chỉnh chiến lược phân bổ room tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, cộng hưởng với mặt bằng lãi suất cho vay giảm mạnh từ năm 2024, tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay sớm hơn và ổn định hơn.

Khác với giai đoạn 2020 - 2022 khi tăng trưởng tín dụng tập trung vào nhóm ngân hàng tư nhân lớn, trong nửa đầu năm 2025, tín dụng lan tỏa đều từ khối ngân hàng quốc doanh, ngân hàng cổ phần đến ngân hàng nhỏ.

Trong nhóm ngân hàng quốc doanh, VietinBank ghi nhận tăng trưởng tín dụng gần 10%; Vietcombank tăng 11,1% (nếu loại trừ dư nợ tái cơ cấu); còn BIDV tăng 6%, vượt tốc độ cùng kỳ năm ngoái.

Nhóm ngân hàng cổ phần cũng có nhiều điểm sáng nổi bật: VPBank tăng tới 19,7%; MSB tăng 13,4%; TPBank đạt 13,8%. Các ngân hàng quy mô nhỏ như NCB, KienlongBank hay ABBank cũng đạt tăng trưởng hai chữ số (NCB đạt gần 22%; ABBank từ mức tăng trưởng âm năm ngoái đã lấy lại đà phục hồi và tăng 16% chỉ sau 6 tháng). Điều này cho thấy, tăng trưởng tín dụng năm nay không chỉ được dẫn dắt bởi một vài ngân hàng, mà là kết quả của sự vận hành đồng bộ toàn ngành.

Một điểm đáng chú ý là, tăng trưởng tín dụng năm nay tiếp tục ghi nhận sự đóng góp quan trọng của tín dụng doanh nghiệp, trong khi đó, tín dụng cá nhân bắt đầu có những dấu hiệu khởi sắc.

Techcombank tiếp tục đẩy mạnh cho vay các dự án bất động sản lớn, SHB tăng trưởng tín dụng 14,4% nhờ phân khúc doanh nghiệp, còn MSB phân bổ tín dụng vào dược phẩm, vật liệu xây dựng, logistics, những ngành có dấu hiệu phục hồi rõ rệt. Như vậy, các ngân hàng không chỉ phục hồi tín dụng, mà còn tái cấu trúc chiến lược cho vay, dịch chuyển từ tiêu dùng sang sản xuất, kinh doanh thực, vừa đáp ứng định hướng vĩ mô, vừa quản trị rủi ro hiệu quả hơn.

Biên lãi ròng tiếp tục suy giảm và chạm đáy

Dư nợ tín dụng duy trì đà tăng trưởng ổn định, nhưng NIM lại thu hẹp dần, cho thấy sức ép ngày càng lớn từ chính sách lãi suất, cơ cấu tài sản và cuộc đua cạnh tranh trong ngành. Việc phân tích diễn biến NIM không chỉ giúp nhìn rõ hiệu suất tài chính thực tế của từng ngân hàng, mà còn hé lộ xu hướng tái cấu trúc mô hình hoạt động toàn ngành trong thời gian tới.

Dữ liệu đến quý II/2025 cho thấy, NIM toàn hệ thống giảm về 3,15%, từ mức 3,25% cuối năm 2024, đánh dấu quý thứ 6 liên tiếp NIM giảm và tiếp tục tạo đáy mới.

Dù tín dụng tăng nhanh và thu nhập ngoài lãi tăng hơn 23%, NIM vẫn suy giảm do sự thay đổi trong cơ cấu cho vay, áp lực giảm lãi suất cho vay và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng. Lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên như xuất khẩu, hạ tầng, năng lượng tái tạo ở mức thấp khiến hiệu suất sinh lời từ tài sản giảm. Trong khi đó, chi phí vốn (CoF) dù giảm, nhưng chưa đủ nhanh để bù đắp tốc độ giảm của lãi suất đầu ra.

Đặc biệt, 3 ngân hàng quốc doanh lớn (Vietcombank, VietinBank, BIDV), dù có chi phí vốn thấp nhờ CASA (tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn/tổng tiền gửi khách hàng) cao, song NIM vẫn tiếp tục xu hướng giảm mạnh. Cụ thể, Vietcombank là 2,69%; VietinBank là 2,65%, BIDV thậm chí thấp hơn, đạt 2,2%.

Nguyên nhân nằm ở đặc thù danh mục cho vay ưu tiên, tập trung vào khách hàng doanh nghiệp lớn, các dự án trọng điểm và đầu tư công, những khoản vay có mức lãi suất thấp để tạo hiệu ứng lan tỏa cho nền kinh tế. Ngoài ra, vai trò chính sách và định hướng giữ ổn định thị trường khiến nhóm này ít có dư địa để nâng NIM, dù có tiềm năng mở rộng mảng bán lẻ trong nửa cuối năm.

Lê Hoài Ân - Chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/buc-tranh-doi-lap-giua-tang-truong-tin-dung-va-nim-nganh-ngan-hang-182643-182643.html