Cá basa, một thời để nhớ
Cùng với cá linh, cá basa là đặc sản thiên nhiên ưu ái cho tỉnh đầu nguồn sông nước, Đồng Tháp trong mùa nước nổi. Càng xuôi về hạ lưu các tỉnh khác, cá basa hiếm dần.

Tượng đài cá basa gần ngã ba sông Châu Đốc.
Cá basa là họ cá da trơn nhưng chiều dài ngắn hơn, dù cá đực hay cái đều có cái bụng to trệ xuống như mang bầu bì nên ngư dân gọi chúng bằng cái tên dân dã: Cá bụng. Còn đặt tên chúng là cá basa vì phần bụng cá có lớp mỡ hình giống sa mỡ heo, có đến 3 thùy nên gọi tên “basa”.
Tượng đài cá nước ngọt đầu tiên của vùng châu thổ
Cá basa là hồi ức đẹp của giới nuôi trồng thủy sản tỉnh An Giang, đặc biệt là vùng Châu Đốc nơi phát sinh nghề nuôi cá bụng, sau đó phát triển qua các vùng khác. Du khách đến vui chơi, hành hương vùng Châu Đốc, ngang qua Công viên Châu Đốc nằm cạnh ngã ba sông sẽ thấy tượng đài cá sừng sững.
Đó là tượng đài cá basa - loài cá nước ngọt đầu tiên ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang dựng thành tượng trong năm 2004 với kinh phí hơn 1,8 tỷ đồng. Đây là sự thể hiện trân trọng đối với loài cá da trơn mở đầu cho xuất khẩu cũng như nghề nuôi cá da trơn giúp tỉnh phát triển kinh tế xã hội.
Tượng đài cá basa cao khoảng 14m, trên đỉnh tượng là hình ảnh con cá basa to lớn đang tư thế quẫy mạnh đuôi, đầu hướng thẳng cao lên như lao vọt lên khỏi mặt nước. Và phần tượng bên dưới tuần tự là những con cá tra nhỏ bơi uốn lượn quanh, hợp thành đàn 9 con biểu tượng chín dòng sông như tên gọi Cửu Long.
Anh Nguyễn Hữu Nghĩa, nuôi cá bè trên ngã ba sông Châu Đốc kể: “Năm 1980, các chủ bè ngóng trong mùa nước nổi bởi con nước mang theo loài cá basa nhỏ đang từ thượng nguồn sông Mê Kông bơi về sông Cửu Long.
Từ tháng 8 đến tháng 10 là mùa câu cá. Để bắt được lượng cá con này, các chủ bè thuê những ngư dân “sát cá” câu và trả tiền công hậu hĩnh vì thế đêm tối trên sông, ngư dân vẫn giăng đèn dầu thắp sáng rực câu cá giống.

Nghề nuôi cá basa bè một thời cực thịnh.
Cá basa con được cho vào một cái bồ kết bằng tre quay tròn để rộng bơi lội như môi trường tự nhiên, sau đó chủ bè cá mới kéo bồ tre chứa cá đưa về bè thả vào bè nuôi.
Theo địa chí An Giang, khoảng năm 1974, có 7.250 bè tập trung ở Châu Đốc vì nơi đây chất lượng nước, lưu tốc dòng chảy mạnh, thích hợp cho việc nuôi cá bè hơn nơi khác. Nghề nuôi cá bè đối tượng chủ yếu là basa, sản lượng cá bè năm 1974 khoảng 42.000 tấn.
Con cá “hoàng kim”
Nghề nuôi cá bè thăng trầm nguyên nhân vì thiếu con giống. Từ năm 1990 trở về trước, con giống basa được khai thác từ tự nhiên bằng cách câu. Từ năm 1991, chương trình nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá basa bắt đầu và đến năm 1999 thành công nhưng chỉ cung cấp hơn 2 triệu cá basa bột. Vì thế, nguồn cá giống vẫn phụ thuộc vào tự nhiên theo mùa nước nổi.
Việc xuất khẩu cá basa bắt đầu từ những năm 1980, cá được phi lê và đông lạnh sang Australia, Hồng Kông (Trung Quốc), sau đó mở rộng thị trường sang Pháp, Mỹ, châu Âu, Singapore. Hằng năm có hơn 2.500 tấn cá basa phi lê được xuất qua các thị trường nói trên. Mỡ cá basa được tiêu thụ hơn 1.500 tấn/năm, mỡ cá basa không tanh mà thơm như mỡ heo.
Năm 1993, An Giang có 7.000 lao động tham gia ngành nuôi và chế biến cá basa, thả ương nuôi khoảng 700 tấn cá bột, nuôi đạt 13.000 tấn cá thương phẩm, chiếm 72% tổng số cá bè nuôi tại Đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều người nuôi cá basa trở nên giàu có nên xem nó như con cá “hoàng kim”.

Cá basa từng là loài cá nuôi chủ lực.
Cá basa xuất khẩu đem về ngoại tệ cho tỉnh. Thị trường trong nước cũng tiêu thụ mạnh nên vào mùa thả cá giống, các chủ bè rộn ràng, khẩn trương, ngã ba sông luôn ồn ào tập nập cân mua, đếm bán cá giống. Các chủ bè ăn ngủ cùng cá, hồ hởi bàn chuyện nuôi cá, giá cá…
Nhưng từ năm 2000 trở về sau cá basa bị cá tra - cũng họ cá da trơn thay thế dần, nguyên nhân do nuôi cá basa phải nuôi bè và có dòng nước chảy mạnh, cá nuôi 1 năm mới xuất bè được.
Trong khi đó, cá tra nuôi ao, bè, hầm đều được và lớn nhanh, nuôi 6 tháng xuất ao. Nguồn cá tra giống dễ tìm, năm 1999, Công ty xuất nhập khẩu thủy sản An Giang cung cấp hơn 100 triệu cá tra bột sinh sản nhân tạo cho người nuôi, trong khi đó cá basa bột sinh sản nhân tạo chỉ 2 triệu con.
Cá basa không còn thế mạnh xuất khẩu nhưng vẫn là một trong các loài cá nuôi kinh tế ở các bè, cá tiêu thụ thị trường nội địa. Ông Huỳnh Tấn Hải, ngụ xã Mỹ Hòa Hưng, nuôi cá bè lâu đời trên sông Hậu cho biết, ngã ba sông Châu Đốc, làng bè Mỹ Hòa Hưng vẫn thả nuôi cá basa nhưng không nuôi chủ lực như trước.

Cá basa chế biến nhiều món ngon được giới bình dân yêu thích.
Ông Huỳnh Tấn Hải giải thích: “Chủ bè thả nuôi ghép, cá mè vinh, cá điêu hồng, basa, cá hú… Các loài cá có vảy sống tầng nổi, còn cá có ngạnh như basa sống tầng đáy nên thức ăn bỏ xuống bè cá tầng nổi, tầng đáy ăn hết không bị lãng phí”.
Cũng theo ông Hải, tùy theo tình hình có năm chủ bè thả nuôi basa làm cá chủ lực. Cá basa cỡ nhỏ dưới 0,5kg/con bán các chợ trong tỉnh An Giang, cá loại lớn 1 con dưới 1kg bán cho thành phố Cần Thơ. Còn cá lớn từ 1 ký trở lên bán ở các chợ Thành phố Hồ Chí Minh.
Cá basa kho lạt ăn trộn với xoài tượng hay nấu canh chua khá ngon. Tại các quán cơm bình dân ở phường Long Xuyên, món cá basa vẫn là khoái khẩu của nhiều sinh viên, người lao động. Vậy là cá basa tiếp tục hành trình trên đường bơi, tiếp tục giúp nhiều người có thu nhập ổn định…
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/ca-basa-mot-thoi-de-nho-post908848.html