Cần bổ sung các giải pháp đột phá thiết thực để giáo dục bứt phá

Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đã đề ra chủ trương 'xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng, theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế'. Đây là một định hướng chiến lược đúng đắn và kịp thời, phản ánh tầm nhìn mới của Đảng ta trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập toàn cầu sâu rộng.

 Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế

Dự thảo đánh giá chính xác rằng bước vào kỷ nguyên mới, Việt Nam muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều này hoàn toàn trúng với thực tiễn: chất lượng nhân lực đang trở thành yếu tố quyết định năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia trong nền kinh tế tri thức. Một nền giáo dục mở, hiện đại, gắn với thực tiễn sẽ là bệ phóng để đào tạo những công dân có tri thức, kỹ năng, phẩm chất đáp ứng yêu cầu phát triển mới và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Chủ trương đề ra nhấn mạnh đến tính mở và hội nhập của hệ thống giáo dục, cho thấy tư duy giáo dục đã đổi mới, không còn khép kín mà hướng tới chuẩn mực khu vực và thế giới. Đây có thể coi là bước tiến về nhận thức so với trước, khi giáo dục luôn được khẳng định là quốc sách hàng đầu nhưng chưa nhấn mạnh rõ yếu tố "ngang tầm thế giới" như lần này.

Dự thảo cũng thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, yếu kém của nền giáo dục hiện nay, như "một nền giáo dục không dựa trên chuẩn đầu ra, thiếu tính mở và khó bắt kịp xu hướng chung của thế giới".

Thực trạng giáo dục Việt Nam cho thấy nhiều vấn đề tồn tại: chương trình và cách dạy học còn nặng về truyền thụ kiến thức hàn lâm, chưa chú trọng phát triển năng lực thực tiễn; tư duy kiểm tra, thi cử còn đè nặng, chưa hướng đến đánh giá năng lực đầu ra; hệ thống giáo dục phân mảnh, thiếu liên thông và kém linh hoạt trong việc công nhận kỹ năng, kiến thức thu được ngoài nhà trường. Những yếu kém này khiến giáo dục nước ta chậm đổi mới, khó bắt kịp các xu thế tiến bộ trên thế giới.

Vì vậy, việc Dự thảo đặt ra yêu cầu phải khắc phục ngay những bất cập, lạc hậu của giáo dục là rất trúng. Đặc biệt, Dự thảo đề cao tính công bằng trong giáo dục, coi đó là nền tảng của một nền giáo dục hiện đại. Điều này phù hợp với chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua, thể hiện qua những chính sách cụ thể như miễn học phí từ mầm non đến trung học phổ thông trên toàn quốc từ năm học 2025-2026.

Chính sách này được Quốc hội thông qua với sự đồng thuận cao, nhằm đảm bảo mọi trẻ em đều có cơ hội tiếp cận giáo dục một cách bình đẳng, không để ai bị bỏ lại phía sau. Điều này cho thấy định hướng giáo dục nhân văn, công bằng của Dự thảo đang dần được hiện thực hóa trong cuộc sống.

Bối cảnh quốc tế cũng được Dự thảo phân tích kỹ lưỡng làm cơ sở cho định hướng đổi mới giáo dục. Dự thảo nhận định đúng rằng một nền giáo dục hiện đại sẽ giúp Việt Nam tạo ra lợi thế cạnh tranh mới: chương trình học tiên tiến, phương pháp dạy học đổi mới sẽ cho phép học sinh, sinh viên Việt Nam đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, thu hút đầu tư và thúc đẩy hợp tác khoa học-công nghệ.

Đánh giá tình hình và định hướng giáo dục trong Dự thảo được đưa ra khá toàn diện, sâu sắc và "trúng" vấn đề. Quan điểm chỉ đạo này đã phản ánh đúng yêu cầu khách quan, là bước tiến về nhận thức của Đảng về vai trò của giáo dục đối với tương lai dân tộc.

Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới. Ảnh minh họa

Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới. Ảnh minh họa

Kiến nghị giải pháp đột phá

Mặc dù định hướng rất đúng đắn nhưng để hiện thực hóa mục tiêu này, phải có những giải pháp mạnh mẽ và đột phá hơn nữa. Dự thảo mới dừng ở tầm định hướng chiến lược, cần bổ sung các giải pháp đột phá thiết thực, khả thi để đạt mục tiêu.

Để hoàn thiện thể chế, chính sách giáo dục cần ưu tiên xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ cho phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu mới.

Cụ thể, cần sớm sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục Đại học, Luật Giáo dục Nghề nghiệp theo hướng tăng cường tự chủ cho các cơ sở giáo dục, gắn tự chủ với trách nhiệm giải trình về chất lượng đầu ra.

Song song, cải cách cơ chế tài chính giáo dục: phân bổ ngân sách hiệu quả, minh bạch; khuyến khích xã hội hóa, huy động khu vực tư nhân đầu tư cho giáo dục ở các cấp.

Bên cạnh đó, xây dựng khung trình độ quốc gia và hệ thống đánh giá kiểm định chất lượng theo chuẩn mực quốc tế, làm nền tảng để các trường định hướng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra và hội nhập.

Một giải pháp đột phá khác về thể chế là sáp nhập, tổ chức lại mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, khắc phục tình trạng manh mún hiện nay. Hình thành một số đại học trọng điểm, đa lĩnh vực đủ sức cạnh tranh khu vực, được tập trung đầu tư phát triển thành trường đạt thứ hạng quốc tế.

Song song đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục thông qua cơ chế mở cửa cho các trường, chương trình nước ngoài liên kết hoặc hoạt động tại Việt Nam. Xây dựng chính sách thu hút sinh viên quốc tế và thúc đẩy trao đổi giảng viên, sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học tập. Thể chế, chính sách thông thoáng, tiên tiến sẽ tạo môi trường cho giáo dục phát triển đột phá.

Phát triển đội ngũ nhà giáo và nâng cao chất lượng nhân lực giáo dục: Con người là yếu tố quyết định thành bại của đổi mới giáo dục, do đó cần đột phá trong chính sách phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.

Cùng với đó, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo hướng hiện đại: cập nhật phương pháp sư phạm tiên tiến, yêu cầu mọi giáo viên đều được thường xuyên tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ năng công nghệ. Có cơ chế thu hút nhân tài vào ngành sư phạm. Tuyển chọn những người giỏi chuyên môn, có đam mê sư phạm (kể cả từ các lĩnh vực khác) vào giảng dạy. Đồng thời mạnh dạn loại bỏ những giáo viên yếu kém, không đáp ứng chuẩn nghề nghiệp.

Đặc biệt, chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và tinh thần đổi mới cho giáo viên. Cần nâng cao năng lực cán bộ quản lý giáo dục các cấp (hiệu trưởng, phòng/sở giáo dục…). Một đội ngũ nhà giáo và quản lý được đãi ngộ tốt, giỏi chuyên môn, vững đạo đức sẽ là lực lượng tiên phong bảo đảm mọi cải cách giáo dục được thực hiện hiệu quả.

Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng giáo dục và ứng dụng công nghệ: Để có nền giáo dục hiện đại, cần đầu tư đột phá vào hạ tầng trường lớp, trang thiết bị và công nghệ giáo dục. Trước hết, Nhà nước phải tiếp tục chương trình kiên cố hóa trường học, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, bảo đảm mọi học sinh được học trong điều kiện cơ sở vật chất đạt chuẩn tối thiểu.

Bên cạnh đó, trang bị hiện đại hóa lớp học: Phổ cập kết nối Internet tốc độ cao cho tất cả các trường. Mỗi lớp học có đủ thiết bị hỗ trợ giảng dạy số. Đẩy mạnh xây dựng học liệu số, nền tảng dạy học trực tuyến để hỗ trợ học tập mọi lúc, mọi nơi.

Do đó, cần xây dựng các nền tảng quốc gia về bài giảng mở, thư viện điện tử, kết nối trường học trên toàn quốc nhằm chia sẻ tài nguyên và thu hẹp khoảng cách số giữa các vùng miền. Mặt khác, đối với giáo dục đại học và dạy nghề, cần đầu tư phát triển các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu, xưởng thực hành đạt chuẩn hiện đại để sinh viên có môi trường thực hành sáng tạo, gắn học đi đôi với hành.

Chính phủ nên lựa chọn một số cơ sở giáo dục trọng điểm để đầu tư trọng tâm. Ngoài ra, cần quan tâm phát triển hạ tầng cho giáo dục hòa nhập và giáo dục đặc thù.

Xây dựng chính sách thu hút sinh viên quốc tế. Ảnh minh họa

Xây dựng chính sách thu hút sinh viên quốc tế. Ảnh minh họa

Song song với 3 nhóm giải pháp chính nêu trên, cần thực thi những đột phá về đổi mới chương trình, phương pháp dạy - học và xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh.

Về chương trình, tiếp tục tinh giản nội dung theo hướng "học ít, hiểu nhiều", tăng thời lượng rèn luyện kỹ năng, hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Triển khai đầy đủ chương trình giáo dục phổ thông mới theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học; bảo đảm triết lý "lấy người học làm trung tâm", chuyển mạnh từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực tự học, tư duy phản biện, sáng tạo.

Về phương pháp giảng dạy, khuyến khích giáo viên áp dụng các phương pháp tích cực: dạy học dựa trên dự án, giải quyết vấn đề, thực hành thí nghiệm, ứng dụng công nghệ để tăng hứng thú và hiệu quả tiếp thu cho học sinh. Bên cạnh đó, đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá theo hướng đánh giá năng lực toàn diện thay vì chỉ kiểm tra trí nhớ. Đẩy mạnh mô hình đánh giá qua hồ sơ học tập, bài tập nhóm, sản phẩm nghiên cứu… kết hợp với kỳ thi chuẩn hóa đánh giá khách quan năng lực cốt lõi, giảm áp lực thi cử không cần thiết.

Cuối cùng, xây dựng môi trường giáo dục nhân văn, an toàn và sáng tạo trong mỗi nhà trường. Cần quán triệt nguyên tắc tôn trọng và khích lệ người học: học sinh được lắng nghe, được phát biểu ý kiến, được khuyến khích thử nghiệm và chấp nhận thất bại như một phần của học tập.

Đồng thời, phải có biện pháp bảo đảm an toàn thể chất và tinh thần cho học sinh: nói không với bạo lực học đường, không để học sinh nào bị kỳ thị hay bỏ rơi. Đối với giáo viên, tạo môi trường để thầy cô yên tâm giảng dạy, được xã hội tôn vinh, bảo vệ danh dự. Khi môi trường giáo dục lành mạnh và giàu tính sáng tạo, những cải cách về chương trình, phương pháp mới thực sự phát huy hiệu quả, tạo nên bước đột phá về chất lượng giáo dục.

Với sự kết hợp đồng bộ các giải pháp về thể chế, nhân lực, hạ tầng và đổi mới chuyên môn nêu trên, chúng ta kỳ vọng nền giáo dục Việt Nam sẽ có những bứt phá mạnh mẽ trong giai đoạn tới.

Nhóm chuyên gia Trường Đại học Giáo dục, ĐHQG Hà Nội

Nguồn Phụ Nữ VN: https://phunuvietnam.vn/can-bo-sung-cac-giai-phap-dot-pha-thiet-thuc-de-giao-duc-but-pha-20251116225610599.htm