Cần cơ chế vượt khung để xây dựng doanh nghiệp toàn cầu

Cùng với phát triển số lượng doanh nghiệp, Nghị quyết 68-NQ/TW đặt ra yêu cầu phát triển doanh nghiệp lớn. Theo TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính), cần phải có cơ chế, chính sách vượt khung để hình thành tập đoàn tư nhân toàn cầu.

TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính)

TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính)

Doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng thưa ông, doanh nghiệp lớn mới là cánh chim đầu đàn dẫn dắt nền kinh tế?

Chính vì vậy, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã đặt nhiệm vụ hình thành và phát triển nhanh các doanh nghiệp lớn và vừa, tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu là một trong 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Trong đó, mục tiêu trước mắt, đến năm 2030 phải có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Xa hơn nữa, đến năm 2045, kinh tế tư nhân Việt Nam phải phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.

Trên thế giới, khu vực doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng vai trò dẫn dắt cả nền kinh tế vẫn là doanh nghiệp lớn, tập đoàn đa quốc gia. Ở Việt Nam, từ năm 2022, chúng tôi đã nghiên cứu về 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam. Theo số liệu nghiên cứu trong Báo cáo 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất năm 2025 (VPE500), mặc dù chỉ chiếm 0,05% tổng số doanh nghiệp, nhưng 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất đóng góp 11,83% doanh thu; khoảng 17,4% nguồn vốn và gần 5,9% tổng lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Tỷ lệ này mỗi năm một cải thiện, cho thấy sự lớn mạnh của các doanh nghiệp tư nhân đầu tàu.

Còn chỉ so sánh riêng với khu vực tư nhân thì 500 doanh nghiệp lớn nhất hiện nay đang sử dụng 10% lao động, chiếm 22% doanh thu, 34% nguồn vốn. Đặc biệt, trong lĩnh vực ngân hàng và bất động sản, doanh thu của các doanh nghiệp nằm trong VPE500 chiếm tới 50% và 47%.

Ông nghĩ sao khi nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam không chịu lớn?

Nhìn vào tổng thể thì khu vực doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang lớn mạnh. Cụ thể, về tổng tài sản, nếu như năm 2019, trung bình một doanh nghiệp có 42 tỷ đồng, thì đến năm 2024 tăng lên 50 tỷ đồng; doanh thu tăng từ 23 tỷ đồng lên 44 tỷ đồng; nộp ngân sách nhà nước ngày càng tăng. Ngoại trừ quy mô lao động giảm từ bình quân 14 người năm 2019 xuống còn 10 người năm 2024, có nguyên nhân là doanh nghiệp áp dụng khoa học công nghệ, tự động hóa, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, giám sát, sản xuất, nên giảm số lượng người lao động trực tiếp. Điều này phù hợp với xu hướng chung của thế giới.

Nhưng nhìn ở phương diện khác thì đúng là tuyệt đại đa số doanh nghiệp không phát triển được về quy mô lao động, tài sản, doanh thu, cũng như nộp ngân sách nhà nước.

Ông có thể phân tích kỹ hơn về vấn đề này?

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, hiện tại, doanh nghiệp nằm trong nhóm VPE500 sử dụng số lao động gấp hơn 207 lần bình quân của khu vực doanh nghiệp tư nhân; tổng tài sản gấp 526 lần; doanh thu gấp 326 lần và nộp ngân sách nhà nước gấp 389 lần. Tất cả các chỉ tiêu này đều tăng rất nhiều so với 5 năm trước. Như vậy, có thể nói, nếu không tính doanh nghiệp lớn và vừa, doanh nghiệp đã có thâm niên tham gia thị trường từ nhiều năm, thì số còn lại (chiếm tuyệt đại đa số) đúng là không lớn lên.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng doanh nghiệp như một số chuyên gia kinh tế nói vui là “không chịu lớn”, là trong những năm vừa qua số lượng doanh nghiệp tăng lên không ngừng, năm sau cao hơn năm trước; quy mô doanh nghiệp mới gia nhập thị trường chủ yếu là lĩnh vực dịch vụ, thương mại, bán buôn, bán lẻ có vốn đăng ký chưa đến 10 tỷ đồng nên kéo mặt bằng chung của khu vực doanh nghiệp xuống.

Số liệu trên cho thấy doanh nghiệp lớn càng ngày càng lớn mạnh. Theo ông vì sao?

Trong cùng một “trường kinh doanh”, nhưng doanh nghiệp lớn càng ngày càng lớn mạnh, theo tôi là do doanh nghiệp lớn đã tập trung đầu tư vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Các doanh nghiệp VPE500 là lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo, đầu tư cho khoa học công nghệ. Do mạnh tay đầu tư vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nên 500 doanh nghiệp tư nhân hàng đầu không chỉ trực tiếp tạo ra sản lượng lớn, mà còn kéo theo sự mở rộng sản xuất ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau và điều đáng mừng là sự phát triển của doanh nghiệp lớn đã tác động lan tỏa đến phần còn lại.

Theo nghiên cứu của chúng tôi, cứ doanh nghiệp thuộc VPE500 tăng thêm một đơn vị nhờ đầu tư thì tác động lan tỏa tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong chuỗi tăng được 0,9 đến 2,7 đơn vị. Có thể hình dung, một doanh nghiệp bất động sản thuộc VPE500 tăng trưởng được một đơn vị thì giúp cho doanh nghiệp khác trong lĩnh vực sản xuất thép, vật liệu xây dựng, nội thất, điện nước... tăng thêm 0,9-2,7 đơn vị.

Giải Nobel kinh tế năm 2025 được trao cho 3 nhà khoa học (Joel Mokyr, Philippe Aghion và Peter Howitt) nhờ công trình nghiên cứu về tác động của đổi mới công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế bền vững. Điều này cho thấy, không chỉ tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp lớn, vừa hay nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ, đều cần phải tập trung đầu tư vào công nghệ, thông tin, đổi mới sáng tạo mới có tương lai phát triển.

Nhận thức rõ vai trò của công nghệ, thông tin, đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết 68-NQ/TW coi việc thúc đẩy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong kinh tế tư nhân là một trong 8 nhiệm vụ trọng tâm.

So với nhiều nước trong khu vực, sự phát triển kinh tế tư nhân nói chung, “siêu doanh nghiệp” nói riêng của Việt Nam đi sau nhiều thập kỷ. Thưa ông, các nước đã làm gì để tạo ra các tập đoàn kinh tế tư nhân hùng mạnh?

Kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore... cho thấy, vai trò của Chính phủ cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế tư nhân nói chung, doanh nghiệp lớn nói riêng. Trong rất nhiều chính sách, đáng kể nhất là nhóm chính sách ưu đãi thuế được triển khai mạnh ở Singapore và Trung Quốc. Trong đó, Singapore cho phép doanh nghiệp khấu trừ 200% chi phí liên quan đến hoạt động quốc tế hóa, cùng các ưu đãi cho M&A xuyên biên giới. Còn Trung Quốc áp dụng hàng loạt chính sách miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, siêu khấu trừ chi phí R&D và hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp công nghệ, tạo động lực đổi mới sáng tạo và mở rộng toàn cầu.

Nhóm chính sách tín dụng và bảo lãnh đầu tư với doanh nghiệp lớn được Chính phủ Nhật Bản thực hiện. Trong khi đó, Hàn Quốc cung cấp tín dụng lãi suất thấp cho các tập đoàn kinh tế tư nhân (chaebol), đồng thời bảo lãnh các khoản vay quốc tế và hỗ trợ vốn đầu tư xuất khẩu.

Kết quả của các chính sách kể trên là các nền kinh tế này có hàng loạt tập đoàn kinh tế quy mô toàn cầu. Nhưng họ không dừng lại, mà tiếp tục thực hiện nhiều chính sách, chiến lược mạnh mẽ hơn để thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh hơn nữa, như Trung Quốc triển khai “31 chính sách chiến lược” tạo môi trường ổn định, minh bạch cho doanh nghiệp; Hàn Quốc ban hành hàng loạt chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp trọng điểm (thép, điện tử, hóa dầu); còn Singapore và Nhật Bản xây dựng chiến lược quốc gia hỗ trợ đổi mới, hội nhập và toàn cầu hóa doanh nghiệp.

Mạnh Bôn

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/can-co-che-vuot-khung-de-xay-dung-doanh-nghiep-toan-cau-d440947.html