Cần có cơ chế quản lý tổ chức, cá nhân sản xuất nội dung độc lập trên không gian mạng
Đại biểu Quốc hội đề nghị sớm có cơ chế quản lý đối với những tổ chức, cá nhân sản xuất nội dung độc lập trên không gian mạng, vì hiện nay họ thường xuyên phát hành sản phẩm mang tính thông tin tương tự như báo chí chính thống nhưng chưa được điều chỉnh rõ trong Luật Báo chí.
Tránh khoảng trống pháp lý
Chiều 23/10, tại Kỳ họp thứ 10, các đại biểu Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi). Đại biểu Đỗ Tiến Sỹ (đoàn Hưng Yên) nhấn mạnh vai trò của báo chí trong việc giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bởi, ở nước ta, người dân được tiếp cận thông tin rộng rãi, tự do. Bên cạnh thông tin chính thống, còn có những thông tin “bên lề” nhưng chúng ta vẫn giữ được sự ổn định là có vai trò của báo chí nói riêng và công tác tư tưởng nói chung.

Đại biểu Đỗ Tiến Sỹ (Đoàn Hưng Yên) nhấn mạnh vai trò của báo chí trong việc giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đại biểu Đoàn Hưng Yên đề nghị sớm có cơ chế quản lý đối với những tổ chức, cá nhân sản xuất nội dung độc lập trên không gian mạng, vì hiện nay họ thường xuyên phát hành sản phẩm mang tính thông tin tương tự như báo chí chính thống nhưng chưa được điều chỉnh rõ trong luật.
“Dự thảo Luật Báo chí sửa đổi lần này chỉ quy định đối với các cơ quan báo chí Nhà nước, nhưng trong thực tế có những nhóm cá nhân, tổ chức sản xuất nội dung độc lập, cung cấp thông tin trên không gian mạng thì chưa thấy đề cập trong dự thảo luật. Chúng ta phải có biện pháp quản lý đúng đắn và phù hợp, tránh khoảng trống pháp lý”, Đại biểu Đỗ Tiến Sỹ nêu ý kiến.
Đại biểu Đỗ Tiến Sỹ nhận định, việc mở rộng danh mục hành vi cấm là cần thiết để tăng cường trách nhiệm xã hội, bảo đảm đạo đức nghề nghiệp và an ninh thông tin. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ lỗi cố ý và vô ý, bởi sai sót trong hoạt động báo chí là điều khó tránh khỏi do đặc thù tác nghiệp nhanh, chịu áp lực thời gian và yếu tố kỹ thuật.
Vì vậy, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát, tinh gọn quy định, chỉ tập trung xử lý các hành vi cố ý xuyên tạc, bịa đặt, vụ lợi hoặc gây hậu quả nghiêm trọng; còn với hành vi sai sót vô ý nên áp dụng cơ chế xử lý nội bộ, cải chính, xin lỗi và khắc phục hậu quả. Cách tiếp cận này vừa đảm bảo tính răn đe, kỷ luật nghề nghiệp, vừa bảo vệ quyền tự do báo chí và khuyến khích môi trường sáng tạo lành mạnh trong báo chí. Nếu luật chưa quy định thì cần được cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn thực thi luật.
Đồng thời, đại biểu đề nghị bổ sung loại hình báo chí đa phương tiện, đa nền tảng hoặc kênh nội dung số của cơ quan báo chí, định nghĩa rõ “kênh nội dung số" của cơ quan báo chí để phản ánh xu thế chuyển đổi số, khi báo chí hiện đại đã tích hợp văn bản, hình ảnh, âm thanh, truyền hình trực tuyến và các nền tảng mạng xã hội.
Hay tại Điều 22 cần bổ sung cụm từ “văn phòng đại diện” bên cạnh “cơ quan thường trú” để tạo điều kiện linh hoạt cho các cơ quan báo chí Trung ương mở rộng mạng lưới tại địa phương mà không nhất thiết phải lập cơ quan thường trú. Quy định này sẽ phù hợp với chủ trương tinh gọn bộ máy và thực tiễn hoạt động báo chí hiện nay.
Về khái niệm trong luật, Đại biểu Đỗ Tiến Sỹ đề xuất thay cụm từ "báo nói", "báo hình" bằng “phát thanh", "truyền hình” để phù hợp với thông lệ quốc tế và cách dùng phổ biến hiện nay.
Đại biểu Nguyễn Thị Nguyệt Nga (đoàn Hải Phòng) cũng đồng tình với Đại biểu Đại biểu Đỗ Tiến Sỹ về việc xác định đúng tên gọi 4 loại hình báo chí. Dự thảo luật xác định 4 loại hình báo chí: báo nói, báo in, báo hình, báo điện tử là sự kế thừa những quy định cũ nhưng xét về thuật ngữ và thông lệ quốc tế thì chưa thống nhất.
Vì vậy, đại biểu đề xuất nên quy định 4 loại hình báo chí là: báo in, phát thanh, truyền hình và báo điện tử. Việc thống nhất này không đơn thuần là tên gọi mà nó có ý nghĩa rất lớn trong quá trình hội nhập, thuận tiện trong hợp tác, đào tạo quốc tế, nghiên cứu và quản lý Nhà nước về báo chí.
Đại biểu Đoàn Thị Thanh Mai (đoàn Hưng Yên) đồng tình với đề xuất quản lý chặt chẽ hoạt động báo chí trên không gian mạng vì phạm vi hoạt động rộng rất khó kiểm soát. Hiện nay thông tin trên mạng nhiều chiều, nhiều mức độ, thâm nhập đến mọi tầng lớp trong xã hội với những nội dung phức tạp, phạm vi rộng. Do đó, cơ quan soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các quy định chặt chẽ và đầy đủ hơn về các hoạt động báo chí trên không gian mạng tại mục 1 chương III của dự thảo luật để làm sao đảm bảo thể hiện được tính bao quát, tính toàn diện của chính sách.
Cắt giảm chứng chỉ không cần thiết
Liên quan đến việc cấp, đổi, thu hồi thẻ nhà báo (Điều 29), đại biểu Đỗ Tiến Sỹ (đoàn Hưng Yên) kiến nghị bỏ yêu cầu xác nhận của công an xã, phường nơi mất thẻ, vì phóng viên có thể bị mất thẻ trong quá trình tác nghiệp ở nhiều địa bàn khác nhau. Việc yêu cầu xác nhận như vậy sẽ gây chậm trễ và phiền hà không cần thiết. Cơ quan chủ quản báo chí nên tự chịu trách nhiệm xác nhận, đồng thời quy định rõ trách nhiệm quản lý phóng viên để đảm bảo tính minh bạch và chủ động.

Đại biểu thảo luận tổ tại Kỳ họp thứ 10, chiều ngày 23/10.
Tại Điểm C, Khoản 2 Điều 29 về cấp, đổi, thu hồi thẻ nhà báo có quy định: “Đối với trường hợp cấp thẻ lần đầu, phải có thời gian công tác liên tục tại cơ quan báo chí đề nghị cấp thẻ từ 2 năm trở lên tính đến thời điểm xét cấp thẻ và đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, đạo đức nghề nghiệp do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức”.
Đại biểu Tạ Thị Yên (đoàn Điện Biên) cho rằng, quy định này xét về mục tiêu là hướng đến nâng cao chất lượng đội ngũ làm báo, song lại đang đi ngược với chủ trương chung của Chính phủ về cải cách hành chính và cắt giảm giấy phép con, chứng chỉ không cần thiết.
Thực tế, việc xét cấp thẻ nhà báo hiện nay đã có hệ thống tiêu chí khá chặt chẽ: Người được xét phải có thời gian công tác báo chí, được cơ quan báo chí nơi công tác đề nghị, có trình độ chuyên môn phù hợp và được cơ quan chủ quản xác nhận. Các điều kiện đầu vào của người làm báo cũng đã được kiểm soát thông qua tiêu chuẩn tuyển dụng, bằng cấp và quá trình đào tạo chuyên ngành.
Nếu bổ sung thêm quy định bắt buộc phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp mới được xét cấp thẻ nhà báo, vô hình trung lại tạo thêm một tầng thủ tục hành chính mới không khác gì một loại giấy phép con, làm phát sinh chi phí, thời gian và thủ tục cho người làm báo.
Cũng bàn về việc cấp thẻ nhà báo, Đại biểu Trần Thị Thu Đông (đoàn Cà Mau) cho rằng, quy định thời hạn 5 năm cho thẻ nhà báo được cho là chưa thực sự tạo điều kiện cho người người làm báo, đề nghị cân nhắc quy định này. Theo đại biểu, có ý kiến cho rằng cấp thẻ nhà báo không thời hạn nhưng đi kèm với các cơ chế giám sát, đánh giá đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên của Hội Nhà báo Việt Nam để đảm bảo chất lượng. Việc này vừa đảm bảo tôn vinh nghề nghiệp vừa đảm bảo cập nhật kiến thức liên tục, đặc biệt là kiến thức về báo chí số.