Cần có cơ chế thí điểm cho điện gió ngoài khơi, gỡ khó cho điện khí
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại tọa đàm về những nội dung cần được bổ sung trong Luật Điện lực (sửa đổi) do Hội Dầu khí Việt Nam tổ chức vào sáng nay 16/10.
Theo đó, tại Tọa đàm: “Luật Điện lực (sửa đổi): Các khoảng trống pháp lý cần được lấp đầy và bổ sung theo tinh thần Nghị quyết 55-NQ/TW, Kết luận 76-KL/TW” các chuyên gia cho rằng trong khi chờ Luật Điện lực (sửa đổi) được Quốc hội thông qua và Quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được phê duyệt rất cần có cơ chế thí điểm cho điện gió ngoài khơi nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 55), Kết luận số 76-KL/TW ngày 16/10/2024 về tình hình thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 23/7/2015 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 và một số định hướng cho giai đoạn mới cũng như triển khai Quy hoạch điện VIII.
Cần sớm ban hành cơ chế thí điểm cho điện gió ngoài khơi
Phát biểu tại tọa đàm, ông Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam khẳng định: “Qua nghiên cứu, tổng hợp và so sánh với những định hướng, chủ trương của Nghị quyết số 55-NQ/TW, Quy hoạch năng lượng Quốc gia và Quy hoạch điện VIII, Hội Dầu khí Việt Nam cho rằng việc hiện thực hóa các dự án nguồn điện khí, khí LNG và điện gió ngoài khơi vẫn tiếp tục gặp khó khăn, vướng mắc đối với các cấp quản lý, các chủ thể và nhà đầu tư trong chuỗi dự án. Điều đó dẫn tới nguy cơ làm chậm và không đảm bảo tốc độ phát triển các dự án nguồn điện trong ngắn hạn và dài hạn theo Quy hoạch”.
Nói về các vướng mắc cho các dự án điện gió ngoài khơi, đặc biệt là cho các dự án thí điểm, ông Nguyễn Tuấn -Trưởng Ban Thương mại, Tổng công ty CP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC) cho biết, Dự thảo hiện có 130 điều, tuy nhiên mục về điện gió ngoài khơi chỉ có 9 điều, đưa ra quy định chung, khái quát.
Petrovietnam và PTSC đã kiến nghị 17 vấn đề với mục tiêu làm rõ định hướng và chính sách phát triển, tuy nhiên mới chỉ có 4 chỉ tiêu được tiếp thu. Các kiến nghị chưa được tiếp thu, gồm: Định hướng, mô hình cho các giai đoạn phát triển; thể chế hóa được vai trò của Petrovietnam theo Kết luận 76-KL/TW; thống nhất về đầu mối quản lý và vai trò của Chính phủ; sự đồng bộ giao đất với khu vực biển; cơ chế rõ ràng cho xuất khẩu điện gió ngoài khơi.
Điều này dẫn đến sự không rõ ràng về trình tự, thủ tục cho điện gió ngoài khơi, thiếu cơ chế để phát triển các dự án bền vững; tạo khoảng trống pháp lý cho xuất khẩu điện gió ngoài khơi; không tạo đòn bẩy để đầu tư, phát triển chuỗi cung ứng điện gió ngoài khơi tại Việt Nam.
Đặc biệt, theo ông Tuấn, các dự án điện gió ngoài khơi là lĩnh vực mới ở Việt Nam rất cần cơ chế thí điểm, do đó, PTSC kiến nghị Dự thảo Luật giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định phân kỳ các giai đoạn phát triển của ngành; tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư, phân cấp thẩm quyền, thủ tục phê duyệt chủ trương; phát triển thí điểm các dự án điện gió ngoài khơi phục vụ trong nước và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, một kiến nghị quan trọng khác được PTSC đề cập tới là tăng cường vai trò của Petrovietnam và các đơn vị thành viên tham gia chuỗi cung ứng về điện gió ngoài khơi theo Kết luận 76-KL/TW, chủ trì thực hiện công tác khảo sát địa chất và địa kỹ thuật, đo gió và thủy văn; khuyến khích các đơn vị thành viên của Petrovietnam tham gia vào chuỗi cung ứng và phát triển các dự án điện gió ngoài khơi, tăng tỷ lệ cổ phần của Petrovietnam/đơn vị thành viên của Petrovietnam đối với dự án điện gió ngoài khơi, thí điểm xuất khẩu.
Bàn luận về các vướng mắc của điện gió ngoài khơi, TS. Dư Văn Toán, chuyên gia năng lượng tái tạo, Viện Khoa học môi trường, biển và hải đảo, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, ở Việt Nam điện gió ngoài khơi có tiềm năng tốt, nhất là vùng Nam Trung Bộ, do đó, việc đăng ký diện tích biển để khảo sát, đầu tư thực hiện đang “cháy chỗ”.
Theo TS. Dư Văn Toán, hiện có 4 vướng mắc của dự án điện gió ngoài khơi theo xác định của Bộ Công Thương: Chưa rõ cấp có thẩm quyền giao khu vực biển, cho phép hay chấp thuận cho các tổ chức sử dụng khu vực biển để thực hiện các hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, thăm dò, khảo sát nhằm phục vụ lập dự án điện gió ngoài khơi.
Quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được phê duyệt, nên chưa có cơ sở triển khai thực hiện Quy hoạch điện VIII. Các vướng mắc về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư. Các điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi. Ông Toán nhìn nhận câu chuyện quy hoạch cần Luật Điện lực (sửa đổi) sớm rà soát tới vấn đề cấp phép với các tiêu chuẩn đo lường.
Từ thực tế đó, TS. Dư Văn Toán đề xuất có cơ chế để phục vụ dự án thí điểm, kiến nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về thí điểm phát triển điện gió ngoài khơi, với quy mô ở mức 1.000 MW - 2.000 MW, đồng thời quy định thời gian, giá cả triển khai.
Về khu vực, vị trí diện tích khảo sát, ông Toán cho rằng, PTSC cần kiến nghị thực hiện thí điểm ở khu vực biển Quảng Ninh hoặc Bình Thuận - hai khu vực có sức gió tốt, thuận lợi về mảng giao biển và dễ dàng huy động các đối tác. Ngoài ra, ông Toán cũng đề cập tới các cơ chế thí điểm về khảo sát sơ bộ, thời gian, diện tích, vốn, quá trình quản lý - nghiệm thu - đánh giá.
Gỡ khó cho điện khí LNG
Một lĩnh vực khác được Dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) xác định dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng là điện khí. Là đơn vị đang triển khai các dự án này, ông Nguyễn Duy Giang, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power) chia sẻ, các dự án điện khí được PV Power chuẩn bị trong 8 năm, trong đó quá trình làm thủ tục mất 2/3 thời gian, cho thấy vấn đề hoàn chỉnh thủ tục pháp lý chiếm nhiều thời gian thực hiện. Còn dự án điện gió ngoài khơi cũng mất tầm 10 năm.
Theo ông Giang, trong quá trình triển khai thực hiện, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn lớn vì giá nguyên liệu biến động, do đó cơ chế chuyển ngang giá đóng vai trò cần thiết. Bên cạnh đó, hiện có nhiều dự án điện khí không triển khai được vì vướng mắc ở mô hình tài chính, bên cho vay không xác định được nguồn tiền.
Dự án Nhà máy điện Nhơn Trạch 3&4 là những dự án đầu tiên ở Việt Nam có hợp đồng vay tín dụng không có bảo lãnh Chính phủ. PV Power đã dùng cổ phiếu Nhà máy điện Nhơn Trạch 1&2 và dòng tiền của Nhơn Trạch 1&2 để làm tài sản bảo lãnh cho dự án điện khí LNG đầu tiên của Việt Nam này.
Hiện vẫn còn 13 dự án điện khí nữa đang “tắc”, do vậy từ bài học kinh nghiệm của Dự án Nhà máy điện khí Nhơn Trạch 3&4, ông Giang kiến nghị Bộ Công Thương có cái nhìn thực tiễn để rút kinh nghiệm cho các dự án LNG về sau. Đề xuất mô hình tài chính các dự án bắt buộc phải có hợp đồng mua bán điện PPA.
Ở khía cạnh về đầu tư các kho cảng cho khí LNG, ông Đinh Đức Mạnh, Phó Trưởng Ban Hợp đồng Khí, Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) cho biết, trong quá trình triển khai Quy hoạch điện VIII, các nhà đầu tư dự án điện khí LNG đang thực hiện theo hướng đầu tư kho cảng nhập LNG riêng lẻ, phân tán theo cấu hình một nhà máy, một kho cảng. Điều này không thể tối ưu chi phí để giảm giá thành điện, rủi ro các dự án không được triển khai kịp thời, ảnh hưởng đến an ninh năng lượng quốc gia.
Tuy nhiên, Dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) không có quy định về việc xây dựng các dự án nhiệt điện sử dụng LNG theo chuỗi gắn với kho cảng LNG trung tâm. Nhận thức nguy cơ đó, PV GAS kiến nghị xem xét cụ thể hóa trong Luật Điện lực về cơ chế xây dựng các dự án nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên, LNG theo chuỗi gắn với kho cảng khí hóa lỏng trung tâm (LNG Hub) để tận dụng cơ sở hạ tầng hiệu hữu và đảm bảo hiệu quả của Nhà nước.
Bên cạnh đó, ông Mạnh cũng cho biết, Dự thảo Luật không có điều khoản quy định đối với các dự án năng lượng xanh hydro, amoniac, nguy cơ khiến các nhà đầu tư không có cơ sở để triển khai nghiên cứu và đầu tư các dự án, dẫn đến rủi ro phá vỡ Quy hoạch điện VIII. Do đó, PV GAS kiến nghị phát triển chuỗi dự án sản xuất khí hydrogen, amoniac, từng bước thay thế khí tự nhiên trong sản xuất điện, tận dụng hệ thống cơ sở hạ tầng vận chuyển, phân phối khí hiện hữu.
Đồng tình với PV GAS, PGS.TS Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính cũng cho rằng hiện đang thiếu cơ chế chính sách để thúc đẩy điện khí trở thành “trụ đỡ” cơ cấu nguồn điện của nước ta đến năm 2030. Nếu “trụ đỡ” không được tạo cơ chế phát triển thì chắc chắn sẽ “sập”, gây ảnh hưởng tới an ninh năng lượng quốc gia.
Nhận định lợi thế phát triển điện khí ở Việt Nam lớn nhưng những rào cản hiện không nhỏ, ông Long khuyến nghị giá điện khí - LNG cần phải theo cơ chế thị trường, bởi chi phí nhập khẩu LNG thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi phí sản xuất điện. Nếu giá điện được quy định hành chính, sẽ không phản ánh đúng chi phí thực tế, dẫn đến tình trạng lỗ và thiếu hụt nguồn cung.
Ông Long cũng cho rằng cần các cam kết dài hạn giúp đảm bảo nguồn cung LNG ổn định cho sản xuất điện. Điều này quan trọng trong bối cảnh giá LNG có thể biến động lớn theo thời gian và các yếu tố thị trường.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia đề xuất mở rộng đối tượng được mua bán điện trực tiếp, bao gồm cả điện khí và khí LNG, tạo ra sự cạnh tranh, từ đó thúc đẩy hiệu quả và giảm giá điện cho người tiêu dùng.
Theo ông Phan Tử Giang, Phó Tổng Giám đốc Petrovietnam, để triển khai một dự án điện khí trung bình cần 7-8 năm, điện gió ngoài khơi cần 7-10 năm, do đó cần sớm hoàn thiện cơ chế, nhất là cơ chế thu hút đầu tư.
“Bản chất các nguồn điện giá rẻ đã chạm tới giới hạn, điện than theo các cam kết giảm phát thải nên không thể phát triển thêm, thời điểm này phải tính đến điện khí và các nguồn điện năng lượng mới. Để làm được điều này cần cơ chế đầu tư và vận hành thông thoáng, tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư tham gia thị trường điện. Đây không chỉ là vấn đề của riêng Petrovietnam mà còn là điều kiện cần thiết để tất cả doanh nghiệp tham gia thị trường điện nói chung và điện năng lượng mới nói riêng”, ông Phan Tử Giang kiến nghị.
Tiếp thu các ý kiến tại tọa đàm, ông Đoàn Ngọc Dương, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương đánh giá cao sự quan tâm, nghiên cứu của Hội Dầu khí Việt Nam và các đơn vị thành viên của Petrovietnam.
Dự thảo Luật đã qua bản cập nhật thứ 5, quá trình xử lý giải quyết tiếp thu, có sàng lọc nhiều kiến nghị. Tuy nhiên, trong phát triển điện lực nói riêng và năng lượng nói chung, các vướng mắc còn đa dạng. “Cơ quan soạn thảo sẽ nỗ lực giải quyết theo hướng tập trung xử lý tối đa các vấn đề phát sinh, thể chế hóa đường lối, chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Nội dung nào chưa được tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn, cơ quan soạn thảo sẽ áp dụng các quy định có tính khái quát và ban hành thông tư, nghị định hướng dẫn dưới Luật”, ông Dương cho biết.
Nói thêm về kiến nghị kho LNG Hub, ông Đoàn Ngọc Dương cho biết Dự thảo Luật không yêu cầu về nguồn cung, không giới hạn việc tự đầu tư hệ thống kho cảng đối với các chủ đầu tư, nhưng việc lấy nguồn từ kho cảng khác để tối ưu chí phí, hạ giá thành điện, tạo sức cạnh tranh sẽ được khuyến khích.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã báo cáo Chính phủ các kiến nghị về cơ chế thí điểm cho các dự án năng lượng tái tạo khác trên tinh thần vấn đề nào chưa có kinh nghiệm trong thực tế sẽ được thực hiện theo nguyên tắc mang tính tổng thể.
TS. Nguyễn Quốc Thập cho biết, các ý kiến góp ý tại tọa đàm sẽ được Hội Dầu khí Việt Nam làm căn cứ thực tế xác đáng để tiếp tục có văn bản đóng góp tới cơ quan soạn thảo, góp phần rà soát vướng mắc về pháp lý và hoàn thiện Dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) đáp ứng nhu cầu điện năng phục vụ đời sống nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.