Cần có cơ chế và chính sách đặc thù đối với đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam
Các cơ chế đặc thù, sự đồng bộ với các luật cũng như năng lực công nghệ và chuyển giao công nghệ chính là yếu tố then chốt trong xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam...

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo và cho ý kiến về dự thảo nghị quyết của Quốc hội liên quan đến một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho dự án đường sắt tốc độ cao trục Bắc – Nam. (Ảnh: VGP)
Ngày 3/11, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo và cho ý kiến về dự thảo nghị quyết của Quốc hội liên quan đến một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.
Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng nhấn mạnh việc xây dựng và trình Quốc hội nghị quyết này là yêu cầu lớn, nhằm tạo hành lang pháp lý đủ mạnh, thúc đẩy triển khai dự án trọng điểm quốc gia.
Đặc biệt, cần làm rõ mối quan hệ giữa các cơ chế, chính sách trong dự thảo với những chính sách đã ban hành cho lĩnh vực hạ tầng thiết yếu; đồng thời xác định các ưu đãi nổi trội dành cho đầu tư tư nhân, hình thức đối tác công tư (PPP), cũng như cơ chế kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn cho nguồn vốn nhà nước.
CƠ CHẾ RÕ RÀNG VỀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG SẮT TỐC ĐỘ CAO
Theo Bộ Xây dựng, nhóm cơ chế, chính sách đặc thù bao gồm: quy định chung áp dụng cho cả ba hình thức đầu tư (đầu tư công, đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), đầu tư kinh doanh); quy định riêng cho đầu tư kinh doanh; quy định riêng cho PPP; cùng các cơ chế phòng, chống tham nhũng và quản lý rủi ro.
Các đại biểu cũng đã thảo luận nhiều nội dung cụ thể về phát triển đường sắt tốc độ cao như: công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư, di dời hạ tầng kỹ thuật; khai thác khoáng sản, bãi đổ thải; khai thác quỹ đất quanh nhà ga theo mô hình đô thị định hướng giao thông (TOD); cơ chế tài chính, phát triển nguồn nhân lực, công nghiệp hỗ trợ và chuyển giao công nghệ.
Trong đó, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung đã đề xuất bổ sung cơ chế chia sẻ nguồn lực với ngân sách địa phương trong xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, tương tự như mô hình các dự án đường cao tốc hiện nay. Đồng thời, trong trường hợp doanh nghiệp nhà nước có năng lực, cần cho phép huy động vốn của họ để đầu tư hạ tầng liên quan, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách Trung ương.
Tương tự, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Ngọc Cảnh cho rằng cần làm rõ cơ chế nhà nước cho vay trong trường hợp đầu tư theo hình thức đầu tư kinh doanh (đặc biệt là tỉ lệ cho vay và cách tính thời hạn trả nợ theo từng lần giải ngân); đồng thời đề xuất điều chỉnh một số quy định liên quan đến giới hạn cấp tín dụng và trách nhiệm giám sát, để đảm bảo tính khả thi và phù hợp với pháp luật hiện hành.

Các đại biểu phát biểu tại cuộc họp.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú cũng nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ giữa nghị quyết với các luật liên quan như Luật Đầu tư, Luật Đất đai…. Trong đó, các cơ chế tài chính như tỷ lệ vốn Nhà nước cho vay, giới hạn cấp tín dụng phải được đánh giá tác động kỹ lưỡng nhằm hạn chế rủi ro, phòng ngừa tiêu cực và tránh trục lợi chính sách.
Ngoài ra, việc đánh giá kinh nghiệm quốc tế là cần thiết để lựa chọn mô hình đầu tư phù hợp, tránh vướng mắc trong quá trình triển khai và vận hành. Đánh giá tác động dự án cần mang tính tổng thể, bao trùm cả giai đoạn xây dựng, khai thác và bảo trì hệ thống.
PHÁT HUY TỐI ĐA VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Xây dựng khẩn trương tiếp thu đầy đủ các ý kiến, hoàn thiện dự thảo nghị quyết theo hướng bao quát, rõ phạm vi và đối tượng áp dụng cho cả ba hình thức đầu tư: đầu tư công, đầu tư tư nhân và đầu tư theo phương thức PPP.
Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng cần làm rõ mối quan hệ giữa nghị quyết này với các cơ chế, chính sách đặc thù đã được ban hành cho ngành đường sắt, vật liệu xây dựng… Những cơ chế hiệu quả cần được kế thừa và phát triển; những nội dung chưa đủ mạnh phải được bổ sung, hoàn thiện để nghị quyết thực sự mang tính đột phá, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Phó Thủ tướng cũng lưu ý những quy định đã được luật hóa thì không cần lặp lại, nhằm tránh rườm rà và bảo đảm thuận lợi trong tổ chức thực thi.
Về cơ chế Nhà nước cho vay trong dự án đầu tư kinh doanh, cần phải có luận chứng đầy đủ, gắn với năng lực của nhà đầu tư, cơ chế kiểm soát dòng vốn và phương án phòng ngừa rủi ro, bảo toàn tài sản hình thành từ vốn Nhà nước. Doanh nghiệp cần được quy định rõ trách nhiệm trong cả hai trường hợp rủi ro khách quan và chủ quan, kể cả phương án Nhà nước tiếp quản hoặc quốc hữu hóa tài sản khi cần thiết để bảo vệ lợi ích công.
Đặc biệt, Phó Thủ tướng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của năng lực công nghệ và chuyển giao công nghệ trong quá trình phát triển đường sắt tốc độ cao. Nhà đầu tư phải có lộ trình cụ thể từ tiếp nhận, vận hành, bảo trì đến sản xuất, chế tạo trong nước, phù hợp với năng lực nhân lực và quy mô thị trường nội địa. Các cam kết chuyển giao công nghệ cần được thể hiện rõ ràng, khả thi và có cơ chế giám sát thực hiện.
Cuối cùng, dự thảo nghị quyết phải xác định rõ cơ chế quản lý, sở hữu tài sản, phương thức vận hành và trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam trong toàn bộ vòng đời dự án, tránh chồng chéo và rủi ro pháp lý.
Phó Thủ tướng giao Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp cùng Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tư pháp, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và Văn phòng Chính phủ thành lập tổ biên tập để rà soát, đánh giá tác động và hoàn thiện dự thảo nghị quyết trong thời gian sớm nhất.














