Cần hành lang pháp lý cởi mở để giải phóng tiềm năng của công nghệ chỉnh sửa gen
Chỉnh sửa gen được xác định là hướng đi chiến lược của khoa học nông nghiệp nhưng đang vô tình bị 'trói buộc' bởi hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện. Do đó, cần sớm hoàn thiện khung pháp lý rõ ràng, minh bạch và cởi mở hơn; đồng thời tăng cường thúc đẩy hợp tác công – tư (PPP) nhằm huy động nguồn lực thúc đẩy nghiên cứu, phát triển công nghệ chỉnh sửa gen.

Toàn cảnh Diễn đàn. Ảnh: Tùng Đinh
Động lực chiến lược cho ngành nông nghiệp
Sáng 18/10, tại Hà Nội, Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý”.
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh vai trò chiến lược của công nghệ sinh học trong nông nghiệp, đặc biệt là công nghệ chỉnh sửa gen. Nhờ ứng dụng công nghệ này, Việt Nam đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi năng suất, chất lượng cao, góp phần phát triển nông nghiệp theo hướng hữu cơ, tuần hoàn và đổi mới sáng tạo.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến phát biểu tại Diễn. Ảnh: Tùng Đinh
Hiện 85% giống lúa và 89% gạo chất lượng cao trong nước là giống mới. Trong 9 tháng đầu năm, sản lượng lúa đạt 34,8 triệu tấn, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và nâng cao vị thế Việt Nam trên thị trường quốc tế. Khoa học công nghệ đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành. Dự kiến đến năm 2025, xuất khẩu nông sản có thể đạt 67–70 tỷ USD, khẳng định hiệu quả từ đổi mới khoa học công nghệ.
Theo Viện Di truyền Nông nghiệp, công nghệ chỉnh sửa gen cho phép tác động chính xác vào từng vị trí trong bộ gen cây trồng, giúp tạo giống có khả năng chịu mặn, kháng bệnh, tăng giá trị dinh dưỡng hoặc kéo dài thời gian bảo quản, mà không cần đưa gen ngoại lai như công nghệ chuyển gen (GMO). So với phương pháp truyền thống, thời gian chọn tạo được rút ngắn còn 2–5 năm thay vì 10–15 năm.
Hiện nhiều viện, trường trong nước đã làm chủ công nghệ này, với kết quả nổi bật như: lúa chịu mặn, đậu tương giảm đường khó tiêu, cà chua giàu carotenoid, ngô và đu đủ tăng năng suất, chất lượng.
TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ cho biết, thế giới hiện áp dụng hai hướng tiếp cận chính trong quản lý sản phẩm chỉnh sửa gen đó là dựa trên đặc tính sinh học của sản phẩm cuối cùng hoặc dựa vào công nghệ tạo ra sản phẩm.
Xu hướng toàn cầu đang chuyển sang đánh giá theo đặc tính sản phẩm, nhất là khi không chứa DNA ngoại lai, nhằm khuyến khích đổi mới, minh bạch hóa thương mại và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhiều nước, đặc biệt ở châu Á, đang hoàn thiện khung pháp lý theo hướng cởi mở, coi chỉnh sửa gen là công cụ quan trọng cho phát triển nông nghiệp bền vững.
Tại Việt Nam, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo quan trọng nhằm thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và quản lý an toàn sinh vật biến đổi gen. Luật Đa dạng sinh học năm 2008 đã đưa ra khái niệm về sinh vật biến đổi gen và quy định khung pháp lý cơ bản cho quản lý GMO.
Tuy nhiên, ông Long cho rằng, đối với công nghệ chỉnh sửa gen, hệ thống pháp lý hiện vẫn chưa hoàn thiện. Công tác truyền thông khoa học còn hạn chế khiến xã hội vẫn có tâm lý dè dặt với các sản phẩm biến đổi và chỉnh sửa gen, trong khi mối liên kết giữa nghiên cứu - doanh nghiệp - sản xuất chưa thật sự hiệu quả.
Sớm ban hành quy chế quản lý riêng cho cây trồng chỉnh sửa gen
TS. Nguyễn Duy Phương, Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp) cho biết, công nghệ chỉnh sửa gen mở ra hướng đi mới cho chọn giống cây trồng hiện đại, giúp rút ngắn thời gian và giảm chi phí so với công nghệ chuyển gen truyền thống. Tuy nhiên, việc áp dụng còn gặp khó khăn do thiếu khung pháp lý phù hợp và nhận thức chưa đúng của công chúng.
Thực tế này dẫn đến yêu cầu cần sớm hoàn thiện chính sách, quy chế quản lý để bắt kịp xu thế phát triển toàn cầu, tránh nguy cơ tụt hậu.
Khi sửa đổi, xây dựng cơ chế, TS. Nguyễn Duy Phương cho rằng việc cần làm sớm nhất là điều chỉnh một số khái niệm trong Luật Đa dạng sinh học; chẳng hạn xác định rõ “sinh vật biến đổi gen là sinh vật có cấu trúc di truyền bị thay đổi bằng công nghệ chuyển gen”.
Ngoài ra, cần phân biệt rõ các loại chỉnh sửa gen: SDN-1; SDN-2; SDN-3… Xác định rõ phạm vi chỉnh sửa gen đâu dùng cho thực phẩm, đâu dùng cho thức ăn chăn nuôi.
Ông cũng khuyến nghị, Việt Nam nên tiếp cận quản lý cây trồng chỉnh sửa gen theo hướng “đánh giá sản phẩm cuối cùng” thay vì quá chú trọng phương pháp tạo ra.
TS. Nguyễn Văn Long đề xuất, cần sớm hoàn thiện khung pháp lý và chính sách; hiện đại hóa phòng thí nghiệm, dữ liệu gen quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; định hướng phát triển các chương trình trọng điểm, đặc biệt chú trọng đến đổi mới sáng tạo với sự tham gia của các doanh nghiệp.
Tăng cường thúc đẩy hợp tác quốc tế, bảo hộ sở hữu trí tuệ; chuyển đổi số toàn diện trong công tác quản lý, giám sát và đánh giá sử dụng các sản phẩm.
Cùng quan điểm, theo PGS.TS Nguyễn Phương Thảo - Giảng viên khoa Công nghệ sinh học, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bệnh truyền nhiễm, Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm đổi mới công nghệ sinh học, đặc biệt với cây trồng nhiệt đới, nếu sớm hoàn thiện khung pháp lý và có chính sách hỗ trợ phù hợp. Việc ban hành các tiêu chuẩn an toàn, quy trình xác nhận và cơ chế tài chính sẽ thúc đẩy thương mại hóa các sản phẩm chỉnh sửa gen.
Một thách thức lớn hiện nay là ứng dụng công nghệ này cho cây trồng lâu năm do chu kỳ sinh trưởng dài và khó khăn trong tái sinh. Vì vậy, cần tăng cường hợp tác quốc tế để vượt qua rào cản kỹ thuật này.
Công nghệ chỉ phát huy hiệu quả khi gắn với khung pháp lý đầy đủ, minh bạch và tiên tiến. Hiện, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan sửa đổi Luật Đa dạng sinh học, trong đó làm rõ khái niệm GMO, xây dựng các quy định và tiêu chuẩn quản lý phù hợp với thực tiễn quốc tế.
Để đạt được mục tiêu này, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đề nghị các cơ quan quản lý cần chủ động hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ chỉnh sửa gen.
Đồng thời, kêu gọi tăng cường hợp tác PPP giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, hình thành chuỗi đổi mới sáng tạo từ nghiên cứu đến thương mại hóa. Các tổ chức quốc tế tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ đào tạo và chuyển giao công nghệ, góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.